Pháo bắn lều dưa

đăng 06:26 2 thg 7, 2012 bởi Nguyễn Thanh Truyền   [ đã cập nhật 01:40 18 thg 5, 2013 ]
                                                                                                                                                                                     Đào Lợi 

Hàng năm, Hội bạn chiến đầu cựu chiến binh sư đoàn 5 tỉnh Yên Bái chúng tôi lại gặp nhau một lần gọi là gặp mặt truyền thống. Buổi gặp mặt truyền thống lần này chúng tôi tổ chức lễ mừng thọ hầu hết các đồng chí trong Hội vì cái tuổi 60 trở lên có đến 4/5 số hội viên. Đặc biệt có đồng chí Hoàng Cao Hỷ - nguyên Trung đoàn trưởng trung đoàn 2, sư đoàn 5 đã ngoài 80, đồng chí đã tham gia kháng chiến chống Pháp, Nhật, Mỹ và chiến tranh Biên giới phía Bắc.

Tôi đang đứng ở phía trước hội trường chờ đón các đồng chí Thanh Truyền, Cao Phong, Tài Quán và ban liên lạc Hội bạn chiến đấu cựu chiến binh sư đoàn 5 các tỉnh phía Bắc từ Hà Nội lên và đặc biệt là chờ đồng chí thượng tướng Phan Trung Kiên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng (vị tướng không bao giờ quên đồng đội), chúng tôi có mời nhưng bận công việc không biết đồng chí có lên dự với chúng tôi được không.

Trong hội trường, tiếng cười nói ồn ào, các đồng chí ở trong tỉnh đã có mặt đầy đủ đang trò chuyện vui vẻ, mấy đồng chí thấy tôi đứng một mình ở ngoài gọi vào hỏi chuyện. Muốn vào nói chuyện với đồng đội lắm nhưng tôi đang nóng lòng chờ đồng chí Ba Kiên và các đồng chí trong ban liên lạc Hội bạn chiến đầu cựu chiến binh sư đoàn 5 các tỉnh bạn và Hà Nội lên.

Có tiếng còi xe, tôi bước ra thấy chiếc xe mang biển số Hà Nội. Đúng rồi xe mở cửa, Thanh Truyền, Cao Phong và các đồng chí khác trên xe bước xuống, tôi chạy lại bắt tay, chào, hỏi thăm sức khoẻ và hỏi đồng chí Ba Kiên đâu? đồng chí Cao Phong nói: "Anh Ba bận công việc không lên được đâu" và đồng chí Cao Phong hỏi tôi: "Anh em đến đông đủ cả chưa?" tôi nói: "Đủ rồi, chỉ còn chờ các anh". Bỗng có tiếng nói từ phía sau tôi: "Chào anh Lợi! chào các anh!" Tôi ngoảnh lại chưa kịp trả lời thì Dự vỗ vào tôi hỏi tiếp: "Phú đâu anh Lợi? Phú Đoàn Hùng ấy". Tôi nói: "Tớ chưa nhìn thấy, chắc ở xa cậy ấy chưa đến được đâu. Vừa nói xong chiếc xe máy cub 81 lao tới dừng lại trước mặt tôi. "Phú đây rồi", Dự kêu lên. Thế là ba chúng tôi ôm lấy nhau, tôi nói: "May nhé không được chết, còn sống lại gặp nhau, lẽ ra hai cậu chùng ngày giỗ đấy". Trong tôi bỗng dâng lên một hồi ức về trận đánh cầu Muống ở Kiến Phong hồi đó.

Ngày ấy vào khoảng trung tuần tháng 3 năm 1973, cả chiến trường sôi động đánh địch lấn chiếm ta mở rộng vùng giải phóng, giữ đất, giành dân cắm cờ vùng giải phóng. Từ tháng 6 năm 1972, E2-F5 là đơn vị chiến đấu chủ yếu ở miền Đông Nam bộ được trên điều về vùng đồng bằng. Kiến Tường, Kiến Phong từ chỗ rừng, rừng thưa, trảng trống nay đến chỗ đồng ruộng kênh rạch chằng chịt, ban ngày toàn ém kín, mọi hoạt động hầu hết là ban đêm.

Sau khi trinh sát xong, E2 tổ chức đánh chốt cầu muống, trung đoàn bố trí 2 tiểu đoàn (gọi là 2 tiểu đoàn nhưng chưa được 100 tay súng).

Trời tối hẳn, đơn vị hành quân từ điểm tạm dừng ở biên giới Campuchia vào vị trí chiến đấu. Đường hành quân có lúc là đường mòn, có lúc là bờ ruộng không một bóng cây, mọi người hối hả, im lặng, mang vác súng đạn, phương tiện khí tài và vật liệu tre, gỗ làm cộng sự chiến đấu. Những khẩu lệnh: "Không được nói chuyện", "Không được hút thuốc", "Không được bấm đèn pin thường xuyên" được truyền từ trên đầu đội hình xuống, người sau bám người trước cứ thế đi, cả đội hình chìm trong bóng tối. Đằng xa phía trước mặt thỉnh thoảng có quả pháo sáng treo lơ lửng, ánh sáng yếu ớt rồi tắt vụt.

Đơn vị hành quân được hơn 3 tiếng đồng hồ thì có khẩu lệnh truyền xuống: "Nghỉ giải lao, thủ trưởng đại đội lên hội ý". Chúng tôi, người đứng, người ngồi, có người thì thào với nhau chuyện gì đó. Hành quân vào vị trí chiến đấu thường mang vác không nặng lắm nên anh em chưa thấy mệt mỏi, mọi người đều có cảm giác im lặng chờ đợi. Bỗng đồng chí Vũ Thành Vưu - đại đội trưởng thông tin ra lệnh: "Vô tuyến điện, tổ đài, máy 2W, hữu tuyến điện tổng đài, truyền đạt phân công người ở lại còn theo kế hoạch đi tiếp". Đồng chí Đại đội trưởng thông báo thế thôi chứ công việc, nhiệm vụ đã phân công cụ thể cả rồi. Tôi bảo đồng chí Nhàn quân y đại đội quê ở Vân Du, Đoan Hùng, Phú thọ: "Cậu ở lại đây". Trừ bộ phận ở lại còn chúng tôi lại tiếp tục đi, có tiếng đồng chí Trung đội trưởng hữu tuyến điện nói khe khẽ: "Đồng chí nào dải dây chỉ huy sở triển khai nhé?" mấy đồng chí hữu tuyến điện vội bám nơi đặt hầm chỉ huy sở trung đoàn để mắc máy dải dây. Phía phải đường hành quân tôi thấy có mấy cây thốt nốt và vài bụi cây nhỏ, tôi nghĩ Chỉ huy sở trung đoàn có lẽ đặt chỗ này.

Chúng tôi đi tiếp được chừng gần 1 tiếng đồng hồ thì qua một bản nhỏ của người Khơ Me bỏ hoang, có mấy nếp nhà cũ nát, mấy bụi chuối, vài cây thốt nốt và hàng rào cây xanh, chắc cái làng Miên này cũng bỏ đi lâu rồi, trong bóng tối thấy nó xơ xác lắm.

Bỗng có người chạy qua tôi và khẽ nói: "Hữu tuyến điện cho đặt máy ở đây nhé!". Tôi nhận ra tiếng đồng chí Lương Văn Dự - Đại đội phó thông tin quê ở Việt Cường, Trấn Yên, Yên Bái tôi khẽ nói: "Bộ phận nào ở đây?". Dự nói: "Pháo Sư tăng cường anh ạ!". Pháo sư tăng cường chắc là pháo lớn nên phải ở xa không đi cùng bộ binh được.

Qua làng Miên, chúng tôi rẽ về phía trái và đi tiếp khoảng 40-50 phút nữa thì gặp con kênh rồi rẽ phải theo bờ kênh đi chừng 15 phút, Dự đến chỗ tôi khẽ nói: "Quan sát sở trung đoàn ở đây anh ạ?. Tôi khẽ gọi Phạm Văn Lưu, quê ở Mỹ Thịnh, Mỹ Lộc, Nam Định đến và bảo: "Cậu đi với tiểu đoàn 4 vào đánh chốt đi cùng đồng chí Vũ Thành Vưu đại đội trưởng" và bảo Nguyễn Tuấn Phú quê ở Phương Trung, Đoan Hùng, Phú Thọ: "Cậu đi trạm giữa cùng anh Dự đại đội phó nhé, tôi ở chỉ huy sở tiền phương trung đoàn cùng với anh Triệu Thanh Tịnh - Chính trị viên đại đội và anh Trần Xuân Thường - Chính trị viên phó đại đội và các đồng chí vô tuyến điện, hữu tuyến điện, truyền đạt được phân công ở chỉ huy sở tiền phương".

Tôi đặt ba lô xuống, ngoảnh lại nhìn đã thấy Vưu, Dự, Lưu, Phú biến mất. Trong bóng tối, mở ba lô lấy chiếc sẻng, lắp cán, tôi khẽ nói với anh Tịnh: "Anh cứ đi kiểm tra đơn vị đi, tôi với anh Thường đào công sự". Thường bảo tôi: "Đào cách bờ kênh khoảng 4-5m thôi, đừng đào xa nhé có gì ta còn bám kênh".

Tôi và Thường không ai bảo ai, chọn bụi cây phía bờ kênh quay cửa công sự ra đó, đất bờ kênh dễ đào, chỉ loáng một cái hai chúng tôi đã đào xong công sự sâu gần đến nách đủ chỗ cho 3 người ngồi. Bắc đà rải mành lấp đất xong, chúng tôi lo nhất là nguỵ trang. Ở rừng trực thăng bay thấp vướng cây, chứ ở đồng bằng nó hạ xuống đất được ngay hoặc bọn lính xe tăng đến gần nó có thể nhìn thấy công sự. Tôi nhìn ra phía kênh đột nhiên nghĩ đến bè rau muống thế là chúng tôi kéo ngay bè rau muống phủ kín toàn bộ công sự kính luôn cả cửa chỉ để một lỗ đủ quan sát.

Không hiểu sao tôi bỗng thấy mặt, mũi, cổ, chân, tay rồi toàn thân ngứa điên. Tôi nhìn Thường cũng thấy cậu ta đang gãi và tất cả anh em vô tuyến điện, hữu tuyến điện, truyền đạt cũng gãi. Mọi người hỏi tôi có thuốc gì không, tôi nói: "Lấy đâu ra chỉ có bông, băng, thuốc kháng sinh, cầm máu, giảm đau chứ lấy đâu ra thuốc ngứa, mà không biết tại sao ai cũng ngứa, đành chịu thôi".

Chợt tôi nghe thấy tiếng nổ lớn rồi hàng loạt tiếng nổ lớn nhỏ ầm lên, Thường nói: "Nổ súng rồi, ta đánh rồi". Tôi vội chạy đến chỗ máy điện thoại gọi đến trạm giữa chỗ Dự, Phú, Tường hỏi xem công sự xong chưa, Dự trả lời "Xong rồi, chứng em đào ở trong cái lều coi dưa anh ạ. Tạm được, cúi xuống kín đầu". tôi bảo: "các cậu vừa phải dải dây vừa đào công sự được thế là tốt rồi". Tôi hỏi tiếp: "Còn bọn anh em mình ở tiểu đoàn thế nào rồi?" Dự nói: "Ổn cả anh ạ, không ai bị thương, đường dây bị đứt đã nối xong, đang liên lạc thông suốt".

Tôi nghe xong đặt tổ hợp xuống thò đầu ra khỏi công sự, lúc này trời đã tang tảng sáng, tôi nhìn quanh các công sự xem nguỵ trang tốt chưa, có lộ liễu gì không, địa hình ra sao. Thấy quanh các công sự đều là cây nghể trắng thỉnh thoảng có bụi cây cao bằng đầu, lá nhỏ như cây rút, mọc thưa thớt; dọc bờ kênh thì rậm rạp hơn, dưới mặt nước đặc sệt bè rau muống. Có chuông điện thoại: đồng chí Giao - ban thông tin trung đoàn gọi đồng chí Thường đi công tác; mấy anh em 2W, truyền đạt cũng đang củng cố lại nguỵ trang, tôi nhìn ai nấy mặt mũi sưng húp híp, tôi sờ lên mặt thì ra cả tôi cũng vậy. Trời đã sáng rõ, tôi nhìn lên bụi nghể thấy toàn sâu ngứa ăn lá nghể, rùng mình tôi nói khẽ: "Lắm sâu ngứa quá các cậu ơi, nó ăn lá nghể". Tôi nghển cao đầu nhìn về phía trạm giữa có cái lều coi Dưa. Dự,  Phú, Tường đang ở đó. Tôi thấy xung quanh cái lều Dưa có rất nhiều mô đất, tôi quay máy gọi Dự và nói: "Này thấy quanh chỗ các cậu có nhiều mô đất cậu xem nó là cái gì?" Dự nói: "Em cũng chưa biết nó là cái gì, em đếm được 23 mô anh ạ". Nói rồi tôi lấy ống nhòm quan sát thấy mô đất có cái gậy thò lên tôi giật mình tự nói: "Xe tăng, xe tăng" và điện ngay cho Dự: "Xe tăng đấy Dự ạ, tớ thấy nòng pháo, cậu xem lại và tìm cách xử lý". "Vâng, để em xem lại", Dự nói. Rồi tôi cầm ống kính lia từng mô đất thấy một chiếc xe tăng đang chui lên từ đất, nòng pháo rồi nửa xe, cả xe chạy về  phía lều Dưa. Chuông điện thoại reo lên, tôi cầm tổ hợp nghe, tiếng Dự nói: "Đúng xe rồi anh ạ. Nó dừng lại cách chỗ chúng em độ 30m"; Dự nói tiếp: "Toàn xe tăng và xe bọc thép, nó chui lên hết rồi đang bắn 12,7mm về phía chúng em". Tôi cầu mong không bị đứt dây điện thoại để còn liên lạc với Dự vì trạm giữa không có vô tuyến điện và nếu bắn pháo vào lều Dưa thì không chỉ đứt dây điện thoại mà ba cậu cũng hy sinh, sẽ bị mất liên lạc hữu tuyến điện với trận địa.

Bọn xe tăng này chúng nống lên phía Bắc kênh là để án ngữ hướng tiến công của ta. Ở trận địa bộ đội ta đã vượt kênh đánh chốt cầu Muống rồi, bọn xe tăng sẽ không thể và không dám về chốt vì chúng sẽ ăn đủ B40, B41 và ĐK của ta. Nhưng nếu nó đi dọc kênh về phía Đông Bắc thì nó đi vào chỉ huy sở tiền pương của Trung đoàn và nếu nó ở tại chỗ thì nó sẽ nghiền nát cái lều coi Dưa, ba đồng chí sẽ hy sinh vì không có súng chống tăng, chỉ có súng AK và mấy quả lựu đạn. Phải đánh bọn xe tăng này, tôi đang nghĩ lung mung thì chuông điện thoại reo, tôi cầm tổ hợp nghe thấy tiếng Dự nói: "Anh Lợi ơi, anh gọi pháo bắn vào chỗ em, cứ chỉnh pháo bắn vào lều Dưa". Tôi nói luôn: "Thế thì các cậu chết"; Dự nói: "Đằng nào chả chết, nếu không trúng hầm tụi em thì bọn xe sẽ chạy, chúng em an toàn"; Tôi nói: "Được, cậu thông minh đấy". Thế rồi tôi quay máy gọi về chỉ huy sở trung đoàn xin pháo bắn vào lều Dưa, đầu dây bên kia có tiếng trả lới, chắc là đồng chí tham mưu trưởng trung đoàn: "Tại sao không bắn vào địch mà lại bắn vào lều Dưa". Tôi nói: "Báo cáo thủ trưởng, ở lều Dưa có 3 đồng chí thông tin đang đóng trạm giữa, hiện có 23 xe tăng và xe bọc thép vây kín, chúng bắn đại liên và 12,7mm vào đó có thể chúng sẽ càn vào, theo tôi chỉ còn cách bắn vào lều Dưa mà đạn không trúng hầm thì các đồng chí sẽ an toàn, bọn xe tăng chạy ra rồi ta xử lý tiếp". "Thế công sự có tắc không?", đồng chí hỏi tôi. Tôi nói: "Có thể tránh được mảnh nên ta bắn đạn trạm nổ không bắn đạn khoan". Đầu dây bên kia vang lên tiến "Được, được để tôi gọi pháo sư đoàn, các đồng chí chỉnh pháo trực tiếp nhé". Tôi vừa mừng, vừa lo, mừng là cấp trên đồng ý phương án bán pháo vào lều Dưa lại là pháo của Sư sẽ là pháo lớn địch sẽ sợ chạy ngay nhưng lo là nếu trúng hầm cả 3 đồng chí hy sinh, đường dây liên lạc mất. Chuông điện thoại reo lên, tôi cầm tổ hợp nghe, đầu dây bên kia có tiếng hỏi: "Đồng chí ở đâu? tôi ở chỉ huy sở tiền phương của trung đoàn, thế thì không chỉnh được pháo để các đồng chí ở lều Dưa chỉnh"; Tôi nói: "Được". Chúng tôi cắm nối tiếp máy, tiếng Dự vang lên: "Cứ bắn đi chúng tôi sẵn sàng hy sinh rồi, các đồng chí bắn pháo gì đấy?". "Cối 160 ly", tôi nghe tiếng "Đề ban" và tiếng nổ lớn phía lều Dưa, khói bụi mù mịt, tiếng đồng chí Dự vang lên: "vượt qua chỗ tôi cách 30m". Tôi lại nghe tiếng: "Đề ban", rồi tiếng Dự nói: "Chưa đến chỗ tôi còn cách 20m, có 1 chiếc xe lùi ra rồi còn 3 chiếc nữa rất gần, có thằng lính trên xe thò cổ lên các đồng chí có thấy xe không". Gió thổi mạnh, khói bụi tan nhanh tôi lia ống nhòm thấy thằng lính nguỵ thò nửa người ra khỏi xe, tôi lại nghe tiếng "Đề ban" rồi tiếng nổ lớn, không thấy đất bụi, chỉ thấy khói, quả cối rơi trúng nóc xe, tên lính nguỵ nghẹo sang bên, xe không cháy, bọn lính nguỵ trên xe nhảy xuống chạy sang xe khác. Tiếng Dự vang lên: "Trúng xe rồi, giỏi lắn, giỏi lắm". Thế là 1 chiếc xe M113 bỏ xác còn những cái khác nhả khói đen chạy về phía Tây Nam, tôi thở phào nhẹ nhõm, thế là Dự, Phú Tường sống rồi, nhiệm vụ sẽ hoàn thành tốt.

Trời đã gần trưa, nắng gắt tôi ngồi tụt xuống công sự cho khỏi nắng, mắt nhìn lên nóc công sự, tôi thấy từng mảng, từng mảng đen ngòm. Trời ơi! sâu ngứa, toàn sâu ngứa thôi. Ban ngày trời nắng nó chui xuống đất ẩn náu, đêm bò ra ăn lá nghể. Tôi bảo đồng chí Tịnh: "Ông cẩn thận nếu không nó rơi một tảng vào cổ thì có mà gãi ốm". Vừa nóng, vừa ngứa tôi định bò xuống kênh rửa ráy một chút để ăn gạo rang, bỗng thấy dập dềnh, bè rau muống cứ cuộn lên, lúc này nước không chảy, cái gì chuyển động vậy, địch chăng? tôi với tay cầm khẩu AK khẽ mở khoá an toàn, đồng chí Tịnh hỏi tôi: "Gì đấy?" Tôi bảo: "Chưa nhìn rõ". Đồng chí Tịnh nói tiếp: "Hay là cậu Thường xuống kênh? không phải, cậu Thường ban thông tin trung đoàn gọi đi công tác đã về đâu anh". Có tiếng máy bay L19 đang vè vè nghiêng ngó, có lẽ nó dò xét trận địa cối 160 ly vừa xơi tái chiếc xe M113. Tôi vạch rộng cái bè rau muống che cửa hầm để quan sát máy bay xem mục tiêu mà nó định chỉ điểm cho phản lực đánh bom ở chỗ nào. Chiếc L19 bay khá thấp, có lúc tắt máy lao xuống như giễu cợt. Chợt tôi nghe có giọng miền nam nói từ phhía kênh: "Đừng vội để cho ăn chắc đã". Tôi mải theo dõi chiếc máy bay L19 trên trời quên bẵng quan sát phía dưới kênh, tôi căng mắt nhìn ra cái bè rau muống bỗng im bặt không dập dềnh nhưng không thấy một bóng người. Rõ vừa rồi tôi nghe thấy có tiếng người nói, tôi ghé sát đồng chí Tịnh nói: "Coi chừng địch thật, tôi vừa nghe có giọng miền nam nói "Đừng vôi để chắc ăn đã", có thể nó chưa phát hiện được ta". Anh Tịnh lấy quả US cầm ở tay không nói năng gì, tôi tiếp tục quan sát. Bỗng chiếc máy bay L19 lao xuống phía trận địa cối rồi vụt lên, tôi nghe tiếng xèo, chắc nó chỉ điểm cho phản lực rồi. Không phải, chiếc máy bay L19 gãy làm đôi quay quay như chiếc lá rụng rồi lao xuống đất, một đám khói bốc lên cách chỗ tôi khoảng 300m. Tôi lại nghe tiếng nói ở dưới kênh: "Đ. mẹ tụi bay soi nữa thôi". Lại có tiếng người khác nói : "Đi thôi, không được, kiểm tra lại vết thương đã rồi đi". có cánh tay giơ lên từ bè rau muống và có tiếng nói: "Có đau không mấy anh? phải gắng chịu nghe, trời sắp tối rồi có người cáng mấy anh lên bờ".  Trời ơi! thì ra 2 chiếc xuồng chở thương binh đậy kín bằng bè rau muống do du kích và bộ đội địa phương lôi dưới nước đẩy xuồng từ trận địa ra. Tôi vạch rộng nguỵ trang cửa hầm để nhìn cho rõ. Từ lúc chiếc máy bay trinh sát L19 bị trúng đạn A72 của quân ta bị bẻ gãy làm đôi, trời in bặt không một tiếng máy bay, chúng rất sợ loại tên lửa vác vai này.

Tiếng chuông điện thoại reo lên, đồng chí Tịnh Chính trị viên đại đội cầm tổ hợp nói khẽ: "Tôi nghe", sau đó nhiều tiếng "Vâng, Vâng". Rồi đồng chí triển khai cho đơn vị thu dây máy về vị trí xuất phát. Trời tối hẳn, tôi xách ba lô khoác vào vai và sóc nhẹ một cái. Phía trái có người đi lại và nói: "Ai đấy? Anh Lợi à?". Tôi nói lại: "Dự, Phú, Thường đấy à?". Cả ba đều "Vâng". Tôi nói tiếp: "Các cậu có cảm ơn cái lều Dưa không đấy?". Tất cả chúng tôi đều cười khúc khích, lại có tiếng hỏi: "Các ông cười gì đấy?". Tôi nhận ra tiếng Lưu và trả lời: "Cười cái lều Dưa", rồi tất cả chúng tôi cùng bước đi chìm trong bóng tối.

                                                                                                                                               Yên Bái, tháng 7 năm 2009


Comments