Đinh Thiên Lý Nguyên đài trưởng 2W Tiểu đoàn 26 thông tin F5 Vậy
là đã trên 30 năm, ngày ấy tôi còn là một anh lính trẻ nhiệt tình,
năng động, trách nhiệm, yêu nghề; nay tôi đã gần sáu mươi xuân. Từng ấy
năm, đất nước và mỗi gia đình có biết bao đổi thay vậy mà mỗi khi nhìn
lại bản mật mã của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử lòng tôi lại sốn sang
bởi những ký ức của mùa xuân 1975 lại hiện về như một giấc mơ, một niềm
tự hào của một người lính đã được góp một phần công sức của mình để giữ
gìn bờ cõi, non sông. Ngày ấy, khi bước vào chiến dịch Hồ Chí Minh -
chiến dịch lịch sử của toàn dân tộc thực ra những người lính chúng tôi
không hề biết gì về một chủ trương lớn của Đảng và Quân đội. Trước đó,
sau khi chỉnh quân xong Sư đoàn 5 chúng tôi đựơc triển khai đánh các mục
tiêu như Gò Măng Đa, thị xã Mộc Hoá. nhằm mở rộng vùng giải phóng, khi
ấy tôi được trên điều động về giữ chức vụ đài trưởng mạng 2W tại chỉ huy
sở cơ bản sư đoàn 5, đài trưởng mạng được bố trí 02 máy K71, đồng chí
Đăng Đức Khải cùng đồng chí Quyên phụ trách một máy, tôi - Đinh Thiên Lý
cùng đồng chí Thiện phụ trách một máy. Tất cả đã vào vị trí chiến đấu
và chờ đến giờ G+1 thì nổ súng, nhưng đến 11 gìơ đêm đơn vị đột ngột
nhận được lệnh rút quân, ban tác chiến Sư đoàn lệnh cho các đơn vị rút
và chuyển quân về hướng Ba Thu, các bộ phận tự thu xếp, thế là đài chúng
tôi cuộn an ten, thu máy hàng quân. Anh Bùi Huy Lùngtrung đội trưởng
phụ trách đài về đại đội nhận lệnh, còn chúng tôi tự hành quân (vì cánh
thông tin chúng tôi rất thạo địa hình), chỉ cần cấp trên ra lệnh là đi
đúng theo kế hoạch, chúng tôi hành quân suốt đêm, sáu giờ sáng hôm sau
tới một địa điểm (cứ) dọc đường mà anh em vẫn thường nghỉ thì dừng lại
lúc đó các bộ phận: Truyền đạt, tổng đài, trinh sát nội cần cũng vừa
đến, tất cả đều tranh thủ nghỉ lại sức và chờ lệnh cấp trên, nấu cơm ăn
xong, nghỉ được một lúc thì có tiếng xe hon đa (lúc đó xe rất hiếm, cả
sư đoàn bộ mới có bốn chiếc) dùng cho tủ trưởng sư đoàn và chạy thư hoả
tốc, khi chúng tôi nhìn ra thì thấy chiếc xe màu xanh vẫn dùng phục vụ
thủ trưởng, đồng chí ngồi trên xe máy hỏi chúng tôi:
Vậy
là anh Khải thu xếp đi và giao cho tôi ở lại phụ trách đài. Khoảng hơn
một giờ sau lại thấy tiếng xe, nhìn ra chúng tôi thấy hai chiếc xe máy,
một chiếc chở anh Khải còn chíêc kia chạy không, đến nơi anh Khải bảo:
Lý ơi mày thu xếp lên đi với anh Năm, tôi hỏi anh Khải, vậy tình hình
làm sao mà anh lại về, ânh Khải nói: tao vào báo cáo thì thủ trưởng hỏi
ngay là thằng Lý đâu sao không cho nó lên, tao bảo là mày ở nhà còn em
lên nhận lệnh, thế là thủ trưởng bảo đồng chí về thu xếp cho đài của
đồng chí Lý lên ngay đi công tác. Xe đây thu xếp mà đi ngay đi. Chấp
hành mệnh lệnh, tôi chuẩn bị và gọi đồng chí Thiện cùng đi. Hai anh em
được hai xe máy chở xuống Ba Thu. Nhìn cánh đồng chống chơn chỉ có cỏ
lác cùng lau sậy tôi thấy lo, vì đã mấy năm sống ở Đồng Tháp Mười rồi,
dạo này mà lội xuống thì cực lắm, nước cạn xuồng không đi được, chỉ có
cách duy nhất là lội bộ mà thôi, bùn lún sụt tới đầu gối, cỏ lác mọc dầy
sấn vừa lội bùn vừa phải rẽ cỏ mà đi, những lúc gặp đìa phải đầm mình
xuống, ngửa mặt lên trời choài choài để lội qua. Khi
đến sở chỉ huy tôi vào chào và báo cáo anh Năm Thược, thủ trưởng cười
và bảo: Cậu ra chuẩn bị cơm nước, tư trang, đúng mười bẩy giờ là xuất
phát, ông chỉ tay về phía cánh đồng ra hiệu sẽ đi xuống Đồng Tháp Mười.
Hai anh em ra hàng cây cạnh đó gói gém đồ đạc vào trong bọc ni lông, cái
gì thật cần thiết thì để lại, cái gì không cần lắm thì bỏ lại cho đỡ
nặng, dễ cơ động, tranh thủ nấu luôn cơm vắt, chuẩn bị cho cuộc hành
quân dài. Đúng năm giờ chiều đồng chí cần vụ đến truyền mệnh lệnh hành
quân, chúng tôi đi bụng bảo dạ: chiẩn bị lội đồng. Nhưng có ngờ đâu ra
đến bến sông đã thấy có mấy chiếc xuồng chờ sẵn, mấy đồng chí chống
xuồng bảo: Có phải thông tin thì lên, vậy là mừng quá, hai anh em xuống
xuồng ngồi. Anh Năm cũng vừa tới cùng một đồng chí nữa xuống một chiếc
thế là cuộc hành quân bằng xuồng bắt đầu. Đi suốt đêm đến sáng hôm sau
thì đến bờ sông Vàm Cỏ, đoàn dừng lại có ý chờ, chừng hai giờ sau thì
thấy anh hai Hiệu cùng đài của anh Khải đến, vậy là đài chúng tôi có đủ
mặt. Chờ du kích địa
phương bố trí khoảng tám giờ sáng thì lên xuồng máy cắm cờ Nguỵ quyền
Sài Gòn, mặc áo trắng, mình anh Năm đi một chiếc xuồng, hai chúng tôi đi
chiếc thứ hai, mỗi xuồng cách nhau chừng năm trăm mét chạy xuôI sông
Vàm Cỏ, điI được chừng hai mươi phút nhìn sang phía tay phải chúng tôi
thấy đồn lính Nguỵ, quan sát kỹ trên thực địa tôi nhận ra đó chính là
khu trù mật Thuỷ Đồng (Hay huyện lỵ Tuyên Nhơn) năm 1973 tôi đã cùng anh
Ba Đối Tham nưu phó sư đoàn đặt sở chỉ huy tiền phương đánh vào đây.
Xuồng chạy sát mép nước bên trái vậy là chỉ cách địch có một quãng ngang
sông. Xuồng chạy mãi đến quá trưa thì dừng lại, ănh cơm nắm xong đi bộ
trên bờ kênh có giao liên dẫn đường đến chập tối thì có xuồng chờ sẵn
chở sang bờ bên kia, nơi có một nhà thờ của đạo Hoà Hảo, lúc này đoàn
chúng tôi gốm anh Năm Thược, anh Hai Hiệu, bốn chiến sỹ thông tin chúng
tôi và sáu, bẩy đồng chí trinh sát. Rời khỏi bờ sông đi được chừng một
giờ rưỡi thì đến một xóm dân nhưng không có dân mà chỉ có du kích địa
phương chỉ dẫn. Chúng tôi được lệnh dừng lại, triển khai mạng thông tin
liên lạc, vâỵ là sở chỉ huy sư đoàn lúc đó có khoảng mười lăm người gồm
hai thủ trưởng, một cần vụ, một tài vụ, bốn thông tin lên lạc và 7 đồng
chí trinh sát. Đêm ấy
các đài báo cáo đều đặn và sáng hôm sau tiếng súng đầu tiên mở màn chiến
dịch là đại đội 94 (đại đội công binh của sư đoàn) với nhiệm vụ chặn lộ
4 - điểm gần cầu Tân Hương. Máy 2W đi với đại đội 94 do đồng chí Nguyễn
Doãn Công và đồng chí Huân phụ trách. Mới khoảng tám giờ sáng mà xe ô
tô các loại đã bị chặn dài đến hai cây số. Trước tình hình bị ta chốt
chặn lộ bốn quân Nguỵ dồn sức đánh thông đường, chúng điều xe tăng và bộ
binh từ Long An đánh xuống và máy bay từ Cần Duộc đến hỗ trợ. Trận
quyết chiến mở màn diễn ra vô cùng ác liệt, địch thì tìm mọi cách đánh
bật quân ta ra khỏi vị trí chốt chặn, ta thì bám trụ kiên cương, quyết
tâm giữ vững trận địa, chia cắt lộ bốn để địch không thể chi viện cho
Sài Gòn, đã có xe tăng địch bốc cháy và nhiều lính bộ binh Nguỵ Sài Gòn
bỏ mạng, sau ba mươi phút chiến đấu dũng cảm đại đội 94 cũng có thiệt
hại điện về xin cấp trên chi viện, nhận được điện của đại đội 94 tôi
sang báo cáo, anh Năm chỉ thị cho gọi pháo (khi hành quân xuống đồng
bằng sư đoàn lệnh tháo pháo thành từng bộ phận đặt lên bè chuối kéo
xuống Đồng Tháp, tới nơi triển khai trận địa sẵn sàng chi viện cho bộ
binh), chúng tôi liên lạc với pháo binh và truyền đạt mệnh lệnh của đồng
chí sư đoàn trưởng, đồng thời yêu cầu đại đội 94 hiệu chỉnh để pháo bắn
trung đích. Nhưng do địa hình đồng bằng sình lầy kết cấu nền trận địa
không chắc nên pháo chỉ bắn được một phát đã lún hết tầm không bắn được
nữa, trận địa vẫn liên tục gọi về đề nghị chi viện, giữa lúc khẩn trương
không để địch áp sát trận địa chúng tôi nảy ra sáng kiến dùng bộ đàm
gọi trực tiếp: Chú ý quan, sát khi pháo nổ và hiệu chỉnh, nghe rõ trả
lời. Quả nhiên khi nghe mệnh lệnh của ta qua máy bộ dàm địch cho quân
dãn ra (sau này chúng tôi mới được nghe kể lại). Do địch tập trung cả
lục quân, không quân, pháo binh liên tục tấn công vào trận địa, lực
lượng ta có hạn sau một thời gian chiến đấu quân ta được lệnh tạm rút
quân để bảo toàn lực lượng. Lại
nói về nhiệm vụ chuyên môn của chúng tôi, ngày ấy từ khi bắt đầu chuyển
hướng tấn công, bước vào chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, phương tiện
liên lạc duy nhất của sư đoàn là mạng thông tin 2W vì chuyển quân trên
địa hình Đồng Tháp Mười cực kỳ khó khăn, đường dây hữu tuyến không triển
khai được nên tuần đầu tiên phương tiện liên lạc giữa sư đoàn với các
đơn vị và ngược lại là thông tin vô tuyến điện. Khoảng mười ngày sau
trên bổ xung cho sư đoàn ba máy 15W cùng với 15W các bộ phận tham mưu
mới xuống đầy đủ, do không có phương tiện khác hỗ trợ nên khối lượng
liên lạc là rất lớn, hầu như hai máy trưởng mạng phải làm việc 24/24
giờ, điện đi, điện đến đều phải mã hoá, để bảo đảm bí mật mỗi ngày phải
thay một khoá mật mã vì vậy khó khăn lại càng khó khăn nhưng là một đài
trưởng nhiều năm gắn bó với mạng thông tin vô tuyến, được phục vụ nhiều
trận đánh quan trọng nên bản thân đã đúc rút được nhiều kinh nghiệm nhất
là trong những tình huống khó khăn, phức tạp nên dù có thay khoá mật mã
thường xuyên nhưng chỉ sau hai giờ có khoá mới là tôi đã dịch được trên
30% bức điện, nếu để đến chiều thì cứ cầm bức điện là đọc luôn bằng mật
mã còn điện đến thì dịch luôn, về nguyên tắc điện phải ghi theo mật mã
để lưu nhưng do thành thạo nghiệp vụ nên tốc độ mã hoá của cánh thông
tin chúng tôi nhanh chóng, chính xác và kịp thời, những ngày này tôi và
anh Khải lúc nào cũng mang cáp nghe trên tai khi mệt quá thì thiếp đi
chốc lát và bừng tỉnh khi nghe thấy đài bạn gọi, mỗi lần nhận hoặc phát
điện cả ba bộ phận trên cơ thể phải đồng thời làm việc: Tai nghe, miệng
nói, tay viết, các đồng chí phụ máy do mới vào đơn vị nên chưa có nhiều
kinh nghiệm hơn nữa chỉ huy và các đài trong mạng không chấp nhận sự
chậm trễ, thiếu linh hoạt. Mười ngày sau đài trưởng mạng chúng tôi được
tăng cường thêm anh Hương nguyên là đại đội phó lên trực tiếp chỉ huy
nhưng cũng chỉ giúp cho chúng tôi việc đưa diện lên chỉ huy sư đoàn còn
chuyên môn đồng chí cũng không thể thay thế anh em chúng tôi được.
Khoảng hai mươi ngày sau các bộ phận đi bộ mới tới địa điểm tập kết
được, nhìn anh nào anh ấy mặt mũi, tóc tai, bùn đất dính bê bết chỉ có
hai con mắt là thấy sáng bừng. Lúc này chỉ huy sở sư đoàn có thêm mạng
hữu tuyến, máy 15W cũng được tăng thêm, khối lượng liên lạc mới nhẹ bớt
phần nào. Song trong chiến đấu ở chiến trường đồng bằng thì mạng 2W vẫn
là chủ lực vì đường dây hữu tuyến hỏng phải sửa chữa khắc phục khó khăn
do địa hình sình lầy, kênh rạch nhiều, hơn nữa hữu tuyến cũng chỉ bảo
đảm liên lạc cho các đơn vị ở cự lý gần. Để tuyệt đối giữ bí mật và bảo
đảm mệnh đến đơn vị kịp thời, các mệnh lệnh, báo cáo đều do mạng 2W đảm
nhiệm. Ngày 28 tháng tư năm 1975 trung đoàn 3 sư đoàn 5 được
giao nhiệm vụ đánh cầu Bên Lức Long an báo về: lính Sư đoàn 18 Nguỵ từ
Xuân Lộc, qua Sài Gòn về Miền Tây đã bị trung đoàn chặn đánh bắt được tù
binh, thu nhiều vũ khí nhưng lượng tù binh tăng dần ta không thể giữ
chúng nên sư đoàn lệnh cho Trung đoàn 3 chỉ thu vũ khí còn tù binh thì
phóng thích cho chúng về quê. Mười
một giờ ngày 30 tháng 4 năm 1975 đài phát thanh của chế độ nguỵ quyền
Sài Gòn khẹc khẹc vài lần rồi dừng hẳn, ít phút sau có tiêng gõ, gõ vào
micro rồi giọng một người đàn ông vang lên A lô, A lô Miền Nam đã hoàn
toàn giải phóng rồi đồng chí đó lại hát bài Giải phóng Miền Nam, chúng
ta cùng quyết tiến bước... đang hát thì thấy dừng lại và sau đó là lời
phát biểu đầu hàng của Tổng thống chế độ Nguỵ quyền Sài Gòn Dương Văn
Minh. Thực ra lúc đó không có radio nhưng nhân lúc bớt việc chúng tôi
lấy máy 2W dự phòng ra để mở đài Sài Gòn đón tin chiến thắng. Sài
Gòn giải phóng, chế độ Nguỵ quyền sụp đổ và đầu hàng vô điều liện,
chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử đã toàn thắng chúng tôi cứ nhẩy lên hò
reo, ôm nhau mà khóc mà cười có đồng chí còn hét to lên: “Mẹ ơi Miền Nam
đã hoàn toàn giải phóng đất nước sẽ thống nhất con sắp được về với mẹ
rồi, xung xướng quá mẹ ơi...” nỗi vui mừng của những người lính chúng
tôi không sao tả hết được và một điều chắc chắn là từ nay chúng ta sẽ
được sống trong hoà bình, được gặp lại người thân sau bao năm trời xa
cách. Rời chỉ huy sở từ
vườn chùa (Thầy Yến) chỉ huy sở sư đoàn về cầu Tân Hướng - Long An, lúc
ấy anh Bùi Huy Lùng trung đội trưởng đến thu lại bản mật mã cũ và triển
khai mật mã mới, tôi nói với anh Lùng: Chiến tranh đã hết rồi, bản mật
mã này em đã đánh vật với nó suốt tháng nay, từng từ, từng chữ nằm ở vị
trí nào em chẳng cần xem cũng biết nó nằm ở đâu và viết ngay ra được,
nhưng đây lại là bản mật mã phục vụ sư đoàn trong chiến dịch lịch sử của
Dân tộc, em xin anh được giữ lại để làm kỷ niệm của cuộc đời người lính
trận, anh Lùng miễn cưỡng đồng ý. Vậy là đã 35 năm trôi qua tôi vẫn giữ
bản mật mã này làm kỷ niệm, mỗi lần nhớ đến Miền Nam, nhớ đến bạn bè,
đồng đội, nhớ đến những kỷ niệm không thể nào quên nơi chiến trường khói
lửa, nhất là mỗi khi ngồi kể cho con, cháu nghe về những năm tháng
chiến đấu gian khổ, khó khăn nơi chiến trường tôi đều đem nó ra ngắm
nhìn và nói với con tôi rằng tuy nó chỉ là một mảnh giấy bình thường với
những chữ cái tưởng chừng như vô nghĩa nhưng đó là mồ hôi, xương máu
của tôi và biết bao đồng đội thân yêu đã vĩnh viễn nằm lại nơi chiến
trường. Ngày 23 tháng 11 năm 2008 trong buổi gặp mặt các cựu
chiến binh Sư đoàn 5 trên quê hương ý Yên, Nam Định nhân ngày truyền
thống sư đoàn, sau những phút hàn huyên tâm sự tôi được đồng chí trưởng
ban liên lạc Hội Bạn chiến đấu, cựu chiến binh Sư đoàn 5 phía Bắc gợi ý
tặng bản mật mã lịch sử cho Sư đoàn để các đồng chí lưu giữ trong phòng
truyền thống, tôi vô cùng phấn khởi và mong rằng bản mật mã lịch sử sẽ
được trở về về với sư đoàn. Thông qua bảnh mật mã tôi muốn gửi đến lớp
cán bộ chiến sỹ năm ấy cùng tôi chiến đấu trong đó có các anh: Phạm Vũ
Tiệp đại đội trưởng, anh Hương ở Hải Phòng đại đội phó, anh Bùi Huy Lùng
trung đội trưởng, anh Đặng Đức Khải, Dương Tiến Bảng, Tạ Quang Xung, Đỗ
Đình Thắng, Ngô Kim Muộn cùng các đồng chí ở đơn vị thông tin 2W, tôi
cũng muốn gửi đến lớp cán bộ chiến sỹ sư đoàn hôm nay một lời nhắn: Hãy
phấn đấu, hãy xứng đáng với thế hệ cha anh và giữ vững truyền thống
“Đoàn kết, trung dũng, cơ động linh hoạt, tự lực, tự cường, đánh thăng
mọi kẻ thù” của một sư đoàn hai lần anh hùng lực lượng vũ trang nhân
dân. |