Bài viết mới (Ký ức người lính Sư đoàn 5)
Lời giới thiệu
Đại tá Võ Minh Lương Chỉ huy trưởng Bộ chỉ huy Quân sự tỉnh Đồng Nai Nguyên Sư đoàn trưởng Sư đoàn 5. Sư đoàn Bộ binh 5 là một trong hai sư đoàn chủ lực ra đời đầu tiên trên chiến trường miền Đông Nam Bộ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự đùm bọc, yêu thương, giúp đỡ của cấp ủy, chính quyền, đoàn thể, nhân dân các địa phương trên địa bàn đứng chân và hoạt động. Trong suốt chặng đường 44 năm xây dựng chiến đấu và trưởng thành, Sư đoàn có 10 năm kháng chiến chống Mỹ cứu nước, 4 năm chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam, 10 năm làm nghĩa vụ quốc tế trên đất bạn Campuchia. Các thế hệ cán bộ, chiến sĩ của Sư đoàn đã vượt qua muôn vàn khó khăn, gian khổ, lập nên những thành tích xuất sắc, góp phần vào thắng lợi chung của sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Sư đoàn vinh dự được Đảng và nhà nước hai lần tuyên dương danh hiệu anh hùng LLVTND và nhiều phần thưởng cao quý khác, đúc kết nên truyền thống “Đoàn kết trung dũng, cơ động linh hoạt, tự lực tự cường, đánh thắng mọi kẻ thù”. Truyền thống Sư đoàn là biểu hiện sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý chí quyết chiến quyết thắng của quân đội nhân dân Việt Nam. Cán bộ chiến sĩ Sư đoàn dù quê hương của miền xuôi hay miền ngược, từ miền Bắc đến miền Nam, trên cương vị lãnh đạo, chỉ huy cấp cao hay là chiến sĩ trên mọi lĩnh vực công tác hoặc trở về đời thường, cán bộ chiến sĩ Sư đoàn đều luôn nêu cao phẩm chất “Bộ đội Cụ Hồ” đáp ứng mọi nhiệm vụ trong các giai đoạn cách mạng. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của dân tộc, và những năm tháng chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc và giúp nhân dân Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng của Khơ me đỏ, trải qua bao gian nguy thử thách, đã xuất hiện biết bao tấm gương của các anh hùng liệt sĩ, anh dũng chiến đấu hi sinh trên các chiến trường. Chiến tranh đã lùi xa, đất nước đã hòa bình, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội, những tấm gương sáng của cán bộ chiến sĩ Sư đoàn trên mặt trận mới xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa thời kỳ đổi mới ngày càng nhiều. Công lao thành tích của Sư đoàn đã được lịch sử ghi nhận, là hành trang cho các thế hệ cán bộ chiến sĩ hôm nay và mai sau tiếp tục vững bước tiến lên. Nhân dịp kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Sư đoàn 5 (23/11/1965 – 23/11/2010), chúng tôi xin giới thiệu cuốn sách “Ký ức người lính Sư đoàn 5 anh hùng”. Cuốn sách nhằm kịp thời sưu tầm, lưu giữ tư liệu, giới thiệu những ký ức, kỷ niệm chiến đấu sâu sắc của các thế hệ cán bộ chiến sĩ Sư đoàn 5 đến đông đảo bạn đọc và làm tài liệu giáo dục lịch sử trong đơn vị. Hoàn thành cuốn sách là sự nỗ lực của Đảng ủy – Chỉ huy Sư đoàn, Hội Cựu chiến binh của Sư đoàn, tập thể Ban Biên tập “Trung tâm Vinh danh Việt” Hà Nội thuộc Hội xuất bản Việt Nam và nhà báo Diệu Ân – Ban Biên soạn đã nhận được nhiều những ý kiến đóng góp nhiệt tình, trách nhiệm cao của các nhân chứng lịch sử, của các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy, các cán bộ, chiến sĩ từng gắn bó với Sư đoàn trong suốt 45 năm qua. Sự ra đời của cuốn sách là một sự kiện có ý nghĩa quan trọng, nhằm ôn lại những trang sử vẻ vang và những kỷ niệm sâu sắc, bài học kinh nghiệm trong chiến đấu, huấn luyện, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện mà chúng ta đã biết và có thể chưa biết đến, đồng thời là nguồn cổ vũ động viên tiếp thêm lửa cho cán bộ chiến sĩ Sư đoàn Bộ binh 5 hôm nay tiếp tục phấn đấu xứng đáng với truyền thống đơn vị hai lần được phong Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Trong quá trình thực hiện do trình độ khả năng của bộ phận biên soạn còn có hạn, tập sách này sẽ không tránh khỏi những nhược điểm và thiếu sót. Chúng tôi mong rằng sẽ tiếp tục nhận được những ý kiến đóng góp, bổ sung của các đồng chí lãnh đạo, chỉ huy, các nhân chứng lịch sử, các thế hệ cán bộ, chiến sĩ Sư đoàn qua các thời kỳ và bạn đọc cả nước để nâng cao hơn nữa chất lượng tác phẩm trong lần tái bản sau. Trên tinh thần đó, Đảng ủy – Bộ Chỉ huy Sư đoàn Bộ binh 5, Hội Cựu chiến binh Sư đoàn Bộ binh 5 và “Trung tâm Vinh danh Việt” Hà Nội thuộc Hội xuất bản Việt Nam xin trân trọng giới thiệu tập sách đến đồng chí đồng bào.
Đồng Nai tháng 12 năm 2009
|
Người đồng đội thân thiết
Nguyễn Tuấn Đạt Ngày 16 tháng 2 năm 1968 tôi và anh Nguyễn Văn Lanh quê Thái Bình cùng nhập ngũ. Tôi ở tiểu đội 4, anh ở tiểu đội 3 cùng đại đội. Trong thời kì luyện tập ở miền Bắc chúng tôi ở nhiều nơi, đi nhiều tỉnh, tháng 10 năm 1968 chúng tôi vào Kỳ Anh, Hà Tĩnh thay chân cho Sư đoàn 325 Quân khu bốn chuyển sang trung Lào. Đại đội 19 công binh của chúng tôi trước đây trực thuộc Trung đoàn 88, sư đoàn 308 (Đại Đoàn Quân Tiên phong), nay vào khu 4 đổi thành đại đội 18, trung đoàn 101 Sư đoàn 325. Đại đội 18 có hai trung đội, tôi ở trung đội 2 vào Quảng Trị cùng với đại đội trinh sát đại đội thông tin và một số binh chủng khác của trung đoàn vào chiến trường vừa chuẩn bị đánh thử, rút kinh nghiệm. Trung đội 1 của anh bạn tôi ra Đức Thọ xây dựng lại cống Trung Lương bị địch đánh phá. Đến tháng 6 năm 1969 trung đội phối hợp của chúng tôi được lệnh rút ra Kỳ Tân, Kỳ Anh đồng thời trung đội xây dựng thao trường Quân khu 4. Sau lễ tang Bác Hồ chúng tôi chuẩn bị lên đường đi chiến trường B2. Đại đội chúng tôi được bổ sung vào các tiểu đoàn bộ binh. Mỗi người về một tiểu đoàn, tiểu đoàn tôi lên đường đi trước nửa tháng, tiểu đoàn Lanh đi sau. Chiến trường mênh mông biết bao giờ gặp nhau! Tiểu đoàn chúng tôi đi bộ từ 22 tháng 10 năm 1969 đến 01 tháng 5 năm 1970 vào tới K6 (Bình Phước bây giờ). Đến ngày 5 tháng 5 năm 1970 đảo chính Xihanuc tại Campuchia. Tiểu đoàn của chúng tôi được bổ sung cho Q16, tôi bị sốt rét ở lại điều trị ở tiểu đoàn 230, sư đoàn 92 đường dây. Tôi được nghe đơn vị anh bạn tôi đi sau, đến trạm giao liên sông Đa Quýt thì bị địch đánh hy sinh rất nhiều. Không biết anh bạn tôi có bị gì không? Tiểu đoàn 230, trung đoàn 92 là đơn vị thu dung quân ốm yếu – sốt rét, sau khi điều trị hồi phục sức khỏe bổ sung cho các công trường 5, 7, 9 và các tỉnh đội. Quả đất tròn đến tháng 9 năm 1970 tôi cùng hơn chục anh em được bổ sung về tiểu đoàn 9, trung đoàn 3 sư đoàn 5 là tiểu đoàn có anh bạn tôi. Chúng tôi gặp nhau mừng vui khôn xiết. Lanh sốt rét nhiều hơn tôi, còn tôi sức khỏe đã được bình phục nên được điều về trung đội trinh sát của tiểu đoàn. Lanh được phân công về làm anh nuôi của đại đội 4, đại đội hỏa lực trợ chiến của tiểu đoàn. Suốt từ năm 1970 đến năm 1972, tôi luôn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, từ một chiến sĩ trinh sát tôi được đề bạt lên cán bộ tiểu đội, cán bộ trung đội và tác chiến tiểu đoàn, được đứng trong hàng ngũ của Đảng. Tôi đã tham gia nhiều chiến dịch hoạt động trên nhiều địa bàn, đã thành một người lính dày dạn trong chiến trường. Sau chiến dịch năm 1971 Đông Bắc Campuchia tôi đi chuẩn bị chiến dịch Nguyễn Huệ giải phóng Lộc Ninh. Đến trưa ngày 7 tháng 5 năm 1972 Trung đoàn 3 đảm nhận giải phóng Lộc Ninh. Trưa ngày 6 tháng 5 năm 1972 tôi bị thương tại làng 2 gần ngã ba Lộc Tấn, vết thương phần mềm tôi đi viện điều trị vài ngày rồi về đơn vị chiến đấu tiếp tại sân bay Tecních Đồi Gió – Ngã ba Thanh Bình. Sau đó chúng tôi được lệnh bàn giao chiến trường cho Trung đoàn 205 điều từ Campuchia về. Đơn vị chúng tôi về Mimốt – Cà Chay (Campuchia) nhận lệnh hành quân cấp tốc xuống Đồng bằng sông Cửu Long. Tôi được lệnh đi trước với đoàn cán bộ của Sư đoàn và Miền gồm cả pháo binh, trinh sát, mục tiêu là Điều Nghiên thị xã Mộc Hóa – tỉnh Kiến Tường (nay là Long An). Hướng này bị lộ, đoàn Điều Nghiên chuyển hướng theo kênh Dương Văn Dương, Long Khốt xuống qua Kiến Phong – Mỹ Tho, địa bàn vùng Nam Cai Lậy, Bắc Cái Bè thuộc tỉnh Tiền Giang bây giờ. Chặng đường thật vất vả, cuối cùng chỉ có trung đoàn 3 xuống trót lọt. Địch đã phát hiện lực lượng ta chúng đem một tiểu đoàn gồm Sư đoàn 9, sư đoàn 7 Ngụy và một số liên đội bảo an bao vây trung đoàn, nhưng cuối cùng không làm gì được chúng tôi. Trung đoàn 3 trụ vững và cùng với địa phương mở rộng vùng giải phóng. Sau ngày ký hiệp định Paris ngày 27 tháng 1 năm 1973 vùng giải phóng địa bàn trung đoàn 3 hoạt động vẫn giữ vững làm cơ sở vững chắc cho các cuộc tấn công nổi dậy giải phóng hoàn toàn miền Nam 1975. Chiến trường vùng đồng bằng sông Cửu Long Trung đoàn 3 hoạt động thực sự là vùng giằng co ác liệt vô cùng, khó khăn với một Trung đoàn chủ lực quen tác chiến ở núi rừng. Phải quần nhau với một tiểu đoàn Ngụy có nhiều lợi thế về lực lượng, về phương tiện và địa hình. Anh em chúng tôi phải chống trả quân địch liên miên, di chuyển liên tục, hoạt động không lúc nào nghỉ ngơi, nhiều trận tương quan lực lượng quá chênh lệch, vũ khí, phương tiện không đầy đủ, anh em bị thương, chịu đựng nhiều tổn thất. Nhưng chỉ trong tháng 7 năm 1972 E3F5 đã cùng với (E174) và vũ trang địa phương san bằng 16 đồn bốt dọc kênh La Răng đường 22. Làm anh nuôi của đại đội trợ chiến bạn tôi (Nguyễn Thế Lanh) vẫn luôn quan tâm đến tôi. Mỗi khi về cứ (tôi ở tác chiến tiểu đoàn, có khi bám địch cả tháng trời liền) anh lại cải thiện bún, bánh nhắn qua anh Y là nuôi quân tiểu đoàn bộ bảo tôi xuống đại đội anh ấy để phần. Tôi rất cảm động trước tình cảm của Lanh đối với tôi – người bạn cùng quê, cùng nhập ngũ một ngày. Cuối tháng 6 năm 1972 một buổi tối tại Kênh Một Thước, ấp Mỹ Thành (nam Cai Lậy) Lanh tâm sự tha thiết được về trung đội tôi và nhờ tôi xin với cán bộ tiểu đoàn cho anh ấy được toại nguyện. Nếu được như vậy thực lòng trong những ngày tháng Lanh ở với tôi, tôi mừng nhưng lại rất lo. Mừng là tôi có điều kiện giúp đỡ Lanh trưởng thành, lo là công việc của đơn vị tôi quá vất vả, nguy hiểm. Những ngày đi bám địch ăn mặc “hợp pháp”, “giả dân” trà trộn vào dân, tiếp cận vào tận hàng rào để nghiên cứu, cách bố trí và quy luật hoạt động của địch. Những đêm khuya lạnh, cởi trần ngâm mình bò vào đồn bốt địch để điều nghiên. Chỉ cần sơ suất một chút là mất mạng liền. Chỉ cần va vào mìn, vào trái sáng địch gài ở hàng rào là coi như “xong”! Bởi vậy anh em chúng tôi phải rất cẩn thận, có những đồn bốt chúng tôi phải trinh sát hàng tuần, hàng tháng mới lên được sa bàn, mới nắm được quy luật hoạt động của địch. Sau khi về đơn vị tôi, Lanh rất tích cực và gương mẫu hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ. Tôi đã mạnh dạn cân nhắc và đề nghị cấp trên quyết định đề bạt anh ấy là tiểu đội trưởng, đồng thời căn cứ vào giấy giới thiệu cảm tình Đảng của chi bộ đại đội trợ chiến đưa anh vào danh sách dự kiến kết nạp vào trung tuần quý tới. Nhưng bao dự định tốt đẹp và bao sự nỗ lực, cố gắng miệt mài của đồng chí ấy đã không theo ý muốn! 8 giờ sáng ngày 30 tháng 7 năm 1972 theo kế hoạch tác chiến tiểu đoàn tôi có nhiệm vụ phục kích vận động tiêu diệt đại đội Ngụy càn vào khu vực kênh Một Thước nhưng do sơ suất kế hoạch tác chiến, đêm hôm trước chúng tôi chiếm lĩnh trận địa để lộ do có một số thông tin bị lọt ra ngoài. Mới 8 giờ sáng địch đã tổ chức tấn công vào tiểu đoàn bộ. Hai bên giằng co suốt mấy tiếng đồng hồ. Vì lực lượng của ta ít mà hầu hết là bộ phận chính trị, quân lực, quân y nên quá 12 giờ trưa, địch chiếm được dãy công sự bộ phận chính trị và quân lực, anh em đều bị hy sinh. Lúc này đã quá trưa, địch tạm ngừng tấn công, chúng chỉ dùng ĐK57 bắn cầm canh vào từng gốc cây hoặc ụ đất chúng nghi là công sự ở đó. Tình thế rất khó khăn, quân số ít mà bị thương mấy đồng chí rồi. Địa hình lại quá trống trải, tiểu đoàn không thể điều động các đơn vị bộ binh cách đó cả cánh đồng đến chi viện được. Tiểu đoàn bộ phải tự tác chiến để đảm bảo cho tiểu đoàn rút lui an toàn. Anh Chúc, anh Kiên cán bộ tiểu đoàn, anh Tiến tham mưu trưởng lệnh cho đơn vị tôi vận động theo bờ lau sậy phía sau tiếp cận rặng châm bầu non cao quá đầu người, lợi dụng bờ mương và một số công sự của bộ phận hậu cần tiểu đoàn đã đào vừa được lệnh rút lui trước để lại. Tôi lệnh cho anh Lanh ở lại bảo vệ cho tiểu đoàn bộ rút an toàn. Tôi dẫn hai tiểu đoàn xuất phát trước để chặn mũi tấn công của quân Ngụy. Chúng tạt sườn chặn đường rút lui của chúng tôi. Gọi là trung đội, nhưng quân số chỉ có 12 người, 8 người đến trước chặn địch, còn 4 người do anh Lanh sẽ dẫn lên sau. Thời điểm này có một số thửa ruộng lúa đã chín sớm. Bọn địch dựa vào vào hai khẩu ĐK57 chúng đặt cách đó hơn 100m bắn uy hiếp và dàn hàng ngang xông lên. Trong chiến đấu tôi thường dùng M79 “cối cá nhân” của Ngụy thu được làm vũ khí tác chiến. Khi địch xua quân xông lên tôi bắn liền 4 trái, một số chết, một số bị thương, nên đội hình của chúng khựng lại lùi về tuyến công sự mà chúng đã chiếm được để tránh đạn. Anh em chúng tôi thay nhau chuyển đổi vị trí như con thoi để khống chế không cho chúng tràn lên. Lúc này tiểu đội của anh Lanh đã vận động tới nhưng vì mải quan sát bọn địch ở phía trước, tôi không kịp nhìn lại xem có ai gần bụi tre không. Tôi đã quan sát thấy khẩu ĐK57 của địch thường tập trung bắn vào khóm tre và hàng trâm bầu ngang đầu người trên bờ mương. Có lẽ chúng phán đoán dưới gốc tre có công sự của ta. Chúng tôi không bố trí một tay súng nào ở đấy cả. Vì đó là “điểm chết”, bọn chúng đã bắn hai quả vào đó rồi. Bởi vậy khi tiểu đội anh Lanh vận động đến nơi thì cũng là lúc bọn địch bên kia bờ ruộng đồng loạt tấn công. Tôi phải bắn trả và điều động anh em chống trả. Tôi chỉ kịp hô: không ai được vào bụi tre, địch bắn ĐK đấy! Vừa dứt thì đã nghe tiếng ĐK ùng oành! Anh Thỉnh tiểu đội trưởng, tiểu đội 2 người quê Tiền Hải – Thái Bình hổn hển gọi tôi: “Anh Đạt ơi, anh Lanh bị thương rồi”. Tôi điếng người giao ngay vị trí và hướng tấn công cho anh Toàn, người Ninh Giang – Hải Dương thay tôi chỉ huy chặn địch lại. Rất may lúc đó do sự chống trả quyết liệt của ta, địch không lên được đành lùi lại tấn công đợt sau. Tôi vội vàng lao về gốc tre lôi Lanh xuống, cùng với anh em đưa Lanh ra xa gốc tre. Vừa lôi Lanh ra khỏi gốc tre một quả ĐK của địch nữa lại nã vào, hơi phả ra làm đứt hết cả cúc áo. Bàn chân phải của Lanh gẫy đôi. Tôi lấy băng cá nhân băng cho anh, nhưng mặt Lanh cứ tái đi, tôi đỡ Lanh dậy thấy phía sau lưng có vết thương bằng cái trôn bát do một mảnh nhỏ xuyên thấu từ phía trước qua tim ra phía sau. Tôi biết Lanh không thể sống được nữa rồi. Trước khi trút hơi thở cuối cùng Lanh kêu lên 3 tiếng: “U ơi! U ơi! U ơi!” Người bạn chiến đấu vô cùng thân thiết của tôi vĩnh viễn ra đi không bao giờ trở lại. Tôi lệnh cho tiểu đội Thỉnh và tiểu đội phó Cường nong kênh để Lanh trên lưng đưa về phía sau giao cho quân y và vận tải mai táng. Lúc này tiểu đoàn đã rút về nơi an toàn, còn lại trung đội tôi rút cuối cùng. Trời đã về chiều, tôi trườn nhanh lệnh cho 3 tiểu đội sẽ nhất loạt bắn trả và hô xung phong để áp đảo không cho bọn địch ngẩng đầu lên, để có thời gian chúng tôi rút qua khoảng trống thửa ruộng đã gặt phía sau. Vừa vượt qua khoảng trống, ẩn vào khu lau sậy vừa lúc bọn địch tràn lên chiếm được tuyến công sự của chúng tôi. Nhưng đã về chiều, trời sắp tối bọn chúng dừng lại không dám tấn công nữa. Về tới tiểu đoàn tôi báo cáo lại toàn bộ diễn biến và tổn thất của đơn vị xong lại nhận ngay nhiệm vụ vượt kênh Bằng Lăng Gốc sang bắt liên lạc với anh Năm Ngại phụ trách du kích xã Hội Cư giúp xuồng và lực lượng hỗ trợ ngay trong đêm đưa đội hình của tiểu đoàn tôi sang ém tại ngã tư Nước Lớn, Bắc Cái Bè có một trở ngại là khi chúng tôi tác chiến ở ấp Mỹ Thành vì sợ địch vượt kênh Bằng Lăng sang nên anh em du kích đã gài lựu đạn chặn hết lối đi vì thế cần phải thận trọng, bình tĩnh vượt qua để liên lạc với du kích xã. Một mình tôi sang trước, hai chiến sĩ ở lại chờ, cũng may tôi đã bước qua dây kẽm nhỏ xíu với hai quả lựu đạn của du kích mà không vướng vào dây. Khi tôi gặp anh Năm Ngại anh cứ tròn mắt nhìn tôi hỏi đi đường nào. Khi quay lại anh mới chỉ chỗ đoạn dây kẽm mà tôi vừa bước qua, nghĩ mà sởn tóc gáy, chỉ suýt chút nữa là tan xác. Đêm hôm đó tiểu đoàn tôi đã rút về nơi an toàn tránh được tổn thất lớn trước khi quân địch dùng pháo hủy diệt trận địa nếu không ngày mai địch dùng bom pháo và càn vào thì đơn vị sẽ bị tổn thất. Lại nói về Lanh ban quân y hội chẩn xong giao cho đơn vị vận tải xin chiếc xuồng hỏng của má Bảy đóng quan tài và chôn cất ngay trên mảnh đất của nhà má Bảy, vì điều kiện chiến đấu, đơn vị tôi phải chuyển sâu sang Cái Bè chiến đấu cho đến ngày ký Hiệp định Paris. Từ đó, cứ mỗi lần về quê tôi không khỏi bùi ngùi chạnh nhớ đến Lanh người bạn, người đồng chí thân thiết của mình. Mẹ Lanh đã mất, anh trai Lanh và đứa em gái út đã chuyển cả gia đình vào Biên Hòa, quê hương còn lại một chị gái đã lấy chồng. Tháng 11/2005, nhân 40 năm thành lập Sư đoàn 5 tôi có vào dự và tranh thủ đi trước ghé lại chiến trường xưa với tâm niệm đến tìm lại mộ Lanh thắp nén hương để tưởng nhớ người bạn chiến đấu, người đồng hương thân thiết. Nhưng vì quá lâu lại có sự chuyển dịch lớn, năm 2004 Tiền Giang hoàn thành một nghĩa trang quy mô toàn tỉnh. Tất cả hài cốt các liệt sĩ được tập trung về đây trong quá trình quy tập tên tuổi theo mộ bị thất thoát không tìm được. Gia đình anh trai Lanh và cháu ở Biên Hòa cũng đã đến xã Hội Cư và tìm mộ Lanh nhưng cũng chỉ để thắp nén nhang bái vọng mà thôi vì các ngôi mộ đều vô danh cả. Nhưng Lanh ơi! Anh cũng như bao đồng đội khác đã góp sức làm nên lịch sử vẻ vang của dân tộc. Anh đã chiến đấu anh dũng và hy sinh vẻ vang để lại trong chúng tôi ký ức sâu sắc về hình ảnh một người chiến sĩ của sư đoàn 5 anh hùng. Anh cũng xứng đáng với lòng tự hào và tin yêu của mọi người, của quê hương Thanh Hà, Hải Dương. Hà Nội tháng 8 năm 2009 |
Snoul đại thắng
Bài ghi nhanh của Đại tá Đỗ Viết Tuyển tại chỉ huy sở sư 5 khi anh còn là Trợ lý Chính trị Sư đoàn. Snoul – một thị trấn thuộc tỉnh Kratie Campuchia nằm cách thị xã Kratie 82 cây số về phía Đông Nam trên ngã ba trục đường số 7 đi Kông Pông Chàm và đường 13 đi Lộc Ninh. Đầu mùa khô năm 1970, chiến đoàn số 33 quân Ngụy Sài Gòn mở cuộc hành quân lên Snoul đã bị sư đoàn 5 quân giải phóng miền Đông Nam Bộ đánh cho tơi tả, phải tháo chạy. Đầu mùa khô năm 1971, Mỹ Ngụy lại mở cuộc hành quân “Toàn thắng 1/1971” vào vùng Đông Bắc Campuchia. Chiến đoàn 9 quân Ngụy Sài Gòn là một mũi tấn công quan trọng đánh vào Snoul, cũng đã bị quân giải phóng đánh thiệt hại nặng phải chạy khỏi Snoul. Ngoan cố và liều lĩnh đi theo vết xe thất bại của chiến đoàn 33 và chiến đoàn 9 (Ngụy). Ngày 27 tháng 3 năm 1971 chiến đoàn 8 và trung đoàn thiết giáp số một quân Ngụy Sài Gòn cùng với tiểu đoàn pháo binh hỗn hợp và 2 tiểu đoàn quân biệt động lại kéo nhau lên Snoul thay cho chiến đoàn 9. Vừa mò lên đến nơi chúng đã bị trung đoàn 1 Sư đoàn 5 quân giải phóng đánh liên tiếp và thiệt hại nặng ở cây số 3, hơn 400 tên chết và 30 tên bị bắt làm tù binh (trong đó có 1 tên đại úy đại đội trưởng) và hơn 10 xe tăng, xe bọc thép bị phá hủy. Sau thất bại này chiến đoàn 8 phải co về phòng thủ trên đường số 7 và dọc theo đường 13 kéo dài về biên giới Việt Nam – Campuchia và hình thành tuyến phòng thủ về phía Tây Bắc của Sài Gòn. Để bảo vệ cho chỉ huy Sở của chiến đoàn không bị tấn công, địch bố trí tiểu đoàn 1 và chi đoàn 8, chi đoàn thiết giáp số 1 cùng 2 khẩu pháo 106,7mm chiếm giữ trường học làm vị trí tiền tiêu phía Bắc. Tiểu đoàn bộ binh số 3 của Trung đoàn 9 Ngụy cùng pháo đội A50 và 2 trung đội của pháo đội A50, được tăng cường thêm 1 trung đội của pháo đội B52 chốt trên một cao điểm ở cây số 6. Chỉ huy sở chiến đoàn nằm lọt vào giữa các tuyến phòng thủ bên trong cách ngã ba Snoul khoảng 1km về phía Nam lộ 7, trên đường đi Kông Pông Chàm. Tiểu đoàn bộ binh số 4 thuộc trung đoàn 7 và tiểu đoàn 2 trung đoàn 8 cùng với trung đoàn thiết giáp số 1 gồm ban chỉ huy trung đoàn và 2 chi đoàn số 2, số 3 được tăng cường một chi đoàn của trung đoàn thiết giáp số 5 cộng với 3 pháo đội A53, A50, C52 và một đại đội công binh, một đại đội thám sát chiếm giữ khu nhà thờ, nhà ga, sở 7 làm thành lá chắn bao trùm, chỉ huy sở cùng với hệ thống phòng thủ dây thép gai, bãi mìn dày đặc. Chiến đoàn 8 tưởng có thể đứng vững được ở Snoul hình thành tuyến phòng thủ “Biên giới mới”. Đồng thời tạo cơ sở làm bàn đạp để mùa khô tới tấn công lấn chiếm lại các vùng của quân giải phóng. Tháng 5 năm 1971, bộ chỉ huy Miền quyết tâm đẩy mạnh tấn công, tiêu diệt thêm một bộ phận quan trọng sinh lực và phương tiện chiến tranh của quân Ngụy Sài Gòn; phối hợp với phong trào đánh phá bình định của quân và dân miền Nam. Đồng thời tiếp tục đánh bại hoàn toàn cuộc hành quân “Toàn thắng 01-1971 của Mỹ Ngụy”. Thực hiện quyết tâm trên của bộ chỉ huy. Đúng 17 giờ ngày 25 tháng 5 năm 1971 các đơn vị bộ binh, pháo binh và phòng không của Sư đoàn 5 quân giải phóng đã bí mật hành quân tiếp cận, bao vây toàn bộ chiến đoàn 8 và trung đoàn 1 thiết giáp Ngụy. Mở đầu cho chiến dịch vây lấn, tấn, diệt các điểm phòng ngự của quân Ngụy Sài Gòn tại Snoul. 2 giờ sáng ngày 26 tháng 5 năm 1971, các đơn vị đã hoàn thành công tác chiếm lĩnh, 4 giờ các trận địa pháo của ta đồng loạt dội bão lửa chính xác vào chỉ huy sở chiến đoàn, các trận địa pháo và các vị trí đóng quân của các tiểu đoàn bộ binh, xe thiết giáp của quân Ngụy, gây nhiều đám cháy ở trong các căn cứ này và làm tê liệt các trận địa pháo của địch trong nhiều giờ. Dứt tiếng pháo, các đơn vị bộ binh, công binh, đặc công của ta ép sát quân địch và mở cửa các hàng rào ở vị trí tiền tiêu phía Bắc, Tây Bắc và Đông Bắc của chiến đoàn địch. 5 giờ 10 phút, phân đội 1 tiểu đoàn 4 đã mở một đợt tấn công vào một đại đội của tiểu đoàn 4 quân Ngụy ở chợ Snoul, đánh thiệt hại nặng một đại đội của tiểu đoàn này và làm chủ hoàn toàn chợ Snoul. 6 giờ 45 phút, địch cho tiểu đoàn 4 trung đoàn 7 ngụy và chi đoàn 1 xe bọc thép đi giải tỏa ở ngã ba Snoul đã bị phân đội 1 của ta đánh bật trở lại 4 xe bọc thép và 1 trung đội của địch bị tiêu diệt. 8 giờ 4 phút, chiến đoàn 8 Ngụy cho chi đoàn 1 thiết giáp đi ứng cứu cho tiểu đoàn 4 trung đoàn 7 nên liền bị ta vây đánh quyết liệt. Máy bay vũ trang đến chi viện và tải thương bị phòng không của ta đánh trả nhiều chiếc bốc cháy. Cùng với thời gian trên một cánh quân của ta chia thành ba mũi từ hướng đông đánh thốc lên hướng bắc đẩy lùi bọn bộ binh cơ giới của địch về khu vực nhà thờ. Trong khi đó ở Dốc Lu, một đại đội nống ra liền bị quân ta tiêu diệt. Tối 26 và ngày 27 tháng 5 năm 1971 bộ đội ta tiếp tục áp sát vây chặt và triệt các đường tiếp vận trên không và đường bộ. Đồng thời bắn pháo vào các vị trí đóng quân của địch, gây nhiều tổn thất và uy hiếp dữ dội cánh quân phía Bắc của chiến đoàn 8 Ngụy. Trước tình thế nguy ngập này, 16 giờ 22 phút ngày 27 tháng 5 sư đoàn trưởng 5 Ngụy ra lệnh cho chiến đoàn trưởng chiến đoàn 7 ở Bù Đốp cho tiểu đoàn 1 đi cứu viện. 8 giờ 30 phút ngày 28 tháng 5 pháo binh ta lại dồn dập bắn phá vào các vị trí đóng quân của chiến đoàn 8 Ngụy, gây rối loạn sở chỉ huy chiến đoàn. 9 giờ ngày 28 tháng 5 chiến đoàn trưởng chiến đoàn 8 Ngụy ra lệnh cho cụm quân đóng ở khu trường học mở đường máu tháo chạy. Chi đoàn 1 thiết giáp Ngụy vừa tới nhà thương liền bị phân đội 6 của ta chặn đầu đánh trả quyết liệt. Từ hướng đông nam trường học Z3 (quân giải phóng) chia thành ba mũi đánh vòng xuống khu nhà thương. Z6 từ nam lộ 7 đánh thẳng lên bắc chợ, đồng thời phân đội 8 Z2 từ phía sau đánh thốc tới, dồn toàn bộ quân địch ở khu nhà trường ra quyết chiến điểm để tiêu diệt. Hợp đồng chặt chẽ với bộ binh, pháo binh của ta dội bão lửa xuống đông bắc và tây nam trường học tiêu diệt thêm một số sinh lực và gây rối loạn về tinh thần quân địch. Được sự chi viện của pháo binh với lối đánh dũng mãnh, bám sát quân địch đồng loạt xung phong, các chiến sĩ phân đội 8 đã áp đảo quân địch ngay từ phút đầu. Đúng 9 giờ 40 phút tức là sau 10 phút chiến đấu, phân đội 8 đã chiếm được toàn bộ khu trường học và cùng với các đơn vị bạn quét sạch bọn địch từ trường học qua nhà thương đến bắc chợ. Ngày 28 tháng 5 quân ta tiêu diệt gần 200 tên địch, phá hủy 9 xe quân sự, bắn rơi 4 máy bay thu nhiều vũ khí và đồ dùng quân sự. Chiến đoàn 8 Ngụy mất vị trí tiền tiêu phía Bắc để hở ra một mảng sườn lớn. Phía đông nam của chiến đoàn các vị trí Dốc Lu, cây số 6 bị bao vây uy hiếp. Các đường tiếp tế chi viện trên không và đường bộ hoàn toàn bị cắt đứt. Chiến đoàn 8 trở nên cô lập và bị bao vây rất chặt. Tối ngày 28 tháng 5 pháo binh ta liên tiếp bắn phá vào chỉ huy sở chiến đoàn 8 Ngụy bãi để xe và các trận địa pháo của địch, gây cho chúng nhiều thiệt hại. Ba máy bay đến chở xác cũng bị ta bắn cháy, 2 kho đạn pháo nổ tung, hơn 60 tên địch chết và bị thương. Tình trạng hỗn loạn và tinh thần sa sút trong binh sỹ ngày càng nghiêm trọng. Chiến đoàn trưởng đã nhiều lần kêu cứu viện về trung tâm hành quân và sư đoàn 5 Ngụy. Lữ đoàn kỵ binh thiết giáp số 3 của Ngụy được điều đi cứu nguy cho chiến đoàn 8 ở Snoul, lúc 9 giờ ngày 29 tháng 5 mới dò dẫm tới Hớn Quản. 13 giờ15 phút ngày 29 tháng 5 Bộ chỉ huy sư đoàn 5 quân giải phóng nhận định: “Chiến đoàn 8, cơ bản đã bị đánh bại. Tình trạng thiếu nước và lương thực đang là vấn đề cấp bách số 1 của quân Ngụy ở khu vực Snoul. Chiến đoàn 8 không thể chịu đựng nổi 48 tiếng đồng hồ nữa, nhất định chúng phải tháo chạy trước khi lữ đoàn 3 tới cứu viện. Lữ đoàn 3 Ngụy cũng bị quân ta chặn đứng và tiêu diệt một bộ phận quan trọng, không thể tới chi viện được”. Bộ chỉ huy sư đoàn 5 quân giải phóng hạ quyết tâm: “Tiêu diệt chiến đoàn 8 và trung đoàn thiết giáp số 1 của địch cứu viện của lữ 3 từ Lộc Ninh đi theo đường 13 lên Snoul và sẽ tiêu diệt quân địch ở cây số 6”. Thực hiện quyết tâm của Bộ chỉ huy sư đoàn, đêm 29 rạng 30 tháng 5 một hình thái chiến thuật mới của quân ta được các phân đội bí mật nhanh chóng thực hiện: Giăng sẵn túi lửa ở phía nam sân bay tức đông nam chỉ huy sở chiến đoàn 8 địch. Trời vừa sáng, các chiến sĩ ta cũng vừa cấu trúc xong trận địa. 7 giờ 25 phút ngày 30 tháng 5 tên chiến đoàn trưởng chiến đoàn 8 Ngụy ra lệnh cho tiểu đoàn 3 “Cố gắng chịu đựng 24 tiếng đồng hồ nữa” và yêu cầu trung tâm cho máy bay oanh kích mở đường. Đúng 8 giờ máy bay địch bắn phá bừa bãi xuống ven lộ 13 và đông nam chỉ huy sở chiến đoàn 8. Lập tức cao xạ của ta tung lưới bủa vây. Một máy bay trực thăng của địch trúng đạn bốc cháy lao về hướng đông nam Snoul. Những chiếc máy bay khác vội vàng tháo chạy. |
Truyền thống chiến đấu của sư đoàn BB5 Anh hùng
Thiếu tướng Nguyễn Hồng Phúc Sư đoàn 5 ra đời trong giai đoạn quyết liệt nhất, bước ngoặt của cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược. Sau Đồng Khởi năm 1960, cuộc đấu tranh của nhân dân miền Nam ngày càng thắng lợi lớn, đỉnh cao là các cuộc tấn công quân sự và khởi nghĩa của quần chúng Đông Xuân 1964 – 1965, làm cho 500 ngàn quân Ngụy suy yếu nghiêm trọng, Ngụy quyền Sài Gòn lung lay, đứng trước nguy cơ sụp đổ, chiến lược “Chiến tranh đặc biệt” của Mỹ bị phá sản. Tổng thống Mỹ Giôn-xơn đã buộc nước Mỹ bước vào cuộc chiến ở châu Á, tiến hành “chiến tranh cục bộ” xâm lược Việt Nam, đưa quân viễn chinh vào miền Nam. Đến cuối năm 1965 quân Mỹ đã có hơn 184.000 tên và hơn 20.500 quân chư hầu. Cả nước ta bước vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Quân giải phóng miền Nam sau thắng lợi của chiến dịch Bình Giã, Đồng Xoài đã khẳng định giá trị chiến lược các đòn tấn công của các binh đoàn chủ lực, đánh dấu bước trưởng thành của quân giải phóng; khẳng định sự cần thiết phải xây dựng các binh đoàn chủ lực quân giải phóng làm nòng cốt đánh bại cuộc chiến tranh cục bộ của Mỹ. Ngày 2 tháng 9 năm 1965, Quân ủy – Bộ Tư lệnh Miền quyết định thành lập hai sư đoàn chủ lực đầu tiên ở chiến trường Nam Bộ (Sư đoàn 5 và Sư đoàn 9). Tại hội nghị Đảng ủy sư đoàn lần thứ nhất tại Núi Mây Tàu (Bà Rịa – Long Khánh) nhân ngày kỷ niệm Nam kỳ khởi nghĩa 23 tháng 11, Đảng ủy Sư đoàn nhất trí lấy ngày 23 tháng 11 năm 1965 làm ngày truyền thống của sư đoàn. Sinh ra trên mảnh đất Nam Bộ thành đồng, đứng trên chiến trường miền Đông gian lao và anh dũng, tại quê hương anh hùng liệt sĩ Võ Thị Sáu, mang truyền thống Nam kỳ khởi nghĩa. Sư đoàn là một tập thể đoàn kết, thống nhất ý chí bao gồm một số cán bộ miền Nam tập kết trở về, bộ đội từ miền Bắc vào cùng hàng ngàn người con lớn lên trong phong trào đồng khởi đã từng chiến đấu, chiến thắng chiến tranh đặc biệt của Mỹ, thuộc hai đơn vị ưu tú đầu tiên trên chiến trường Nam bộ: Trung đoàn 5 ở đồng bằng sông Cửu Long, Trung đoàn 4 ở miền Đông đất đỏ. Ngay từ những ngày đầu thành lập, sư đoàn đã đụng đầu với các đơn vị sừng sỏ của Mỹ và Ngụy: Sư đoàn một Anh cả đỏ, Trung đoàn thiết giáp 11, Lữ đoàn dù 173 (của Mỹ), Trung đoàn Hoàng Gia Úc, Sư đoàn Mãng xà vương Thái Lan, Sư đoàn 18 Ngụy. Chiến đấu trên chiến trường Long-Bà-Biên, xa sự chỉ huy của trên, bảo đảm hậu cần kỹ thuật cực kỳ khó khăn, thiếu thốn, quân ăn hàng ngàn mà gạo phát từng lon… Nhưng với ý chí kiên cường, tinh thần tự lực tự cường, cán bộ, chiến sĩ của sư đoàn đã vượt qua khó khăn gian khổ chiến đấu và chiến thắng. Nối tiếp các chiến thắng vang dội từ Đồng Khởi: “Tua 2, Dầu Tiếng, Phước Thành, Đất Cuốc, Thường Lang…”. Trung đoàn 4 về đội hình Sư đoàn 5 lập ngay chiến thắng Võ Su. Tháng 2 năm 1966, Trung đoàn tập kích tiêu diệt D3.E43.F18 Ngụy, mở đầu trang sử chiến thắng quân Ngụy cho Sư đoàn. Đó là trận phối hợp tác chiến nhịp nhàng giữa đơn vị cối, ĐKZ và đơn vị đặc công của sư đoàn, pháo kích sân bay, tập kích vào trường biệt kích ở Vũng Tàu tháng 3 năm 1966 diệt gần 300 tên địch, phá hủy 29 máy bay ngay tại căn cứ mà Mỹ Ngụy coi là hậu phương an toàn của chung. Chiến công nối tiếp chiến công, tháng 4 năm 1966, tại Tầm Bó, Trung đoàn 4 dựa vào trận địa chuẩn bị sẵn, đánh địch tiến công vào. Sau một ngày chiến đấu đã tiêu diệt 1 tiểu đoàn của sư đoàn Anh cả đỏ Mỹ, diệt gần 300 tên, thu nhiều vũ khí (có 4 đại liên, 14 trung liên). Trận đầu đánh thắng Mỹ của Trung đoàn 4 của Sư đoàn. Tiếp theo là các trận thắng Tánh Linh, Ngã ba Ông Đồn… Tháng 8 năm 1966, tại Long Tân (Bà Rịa) Trung đoàn 5 và Tiểu đoàn 445 tổ chức trận địa phục kích, dùng cách lừa địch lôi quân Úc ra để tiêu diệt, Tiểu đoàn 3 lữ Hoàng Gia Úc nống ra giải tỏa đúng ý định của ta. Trung đoàn nổ súng, gần một ngày đánh địch Trung đoàn 5 và Tiểu đoàn 445 đã đánh thiệt hại Tiểu đoàn Úc. Để ghi nhớ nỗi đau, ngày 18 tháng 8 hằng năm đã trở thành 1 trong 2 ngày Cựu chiến binh của Úc. Nhắc lại những chiến thắng oanh liệt của các Trung đoàn thời kỳ đầu thành lập sư đoàn, ta cũng thấy tự hào. Những chiến công đó bắt đầu hình thành truyền thống tốt đẹp của sư đoàn sau này. Năm 1967, Mỹ tiếp tục tăng quân vào miền Nam nâng tổng số quân Mỹ lên hơn 480.000 tên cộng thêm gần 3 vạn quân chư hầu và gần 1 triệu quân Ngụy. Tiến hành cuộc phản công chiến lược mùa khô 1966 – 1967, với hai gọng kìm: “Tìm diệt” và “bình định”. Cuộc hành quân Giôn xơn xi ty của 45 nghìn quân Mỹ và hàng nghìn xe tăng, máy bay vào căn cứ Bắc Tây Ninh. Bị đánh bại, quân Mỹ thương vong tổn thất nhiều, mục tiêu chiến lược của Mỹ - Ngụy không đạt được. Cách mạng miền Nam phát triển lên thời kỳ mới. Từ thế và lực mới Ban chấp hành Trung ương Đảng ra nghị quyết về thời cơ và chỉ đạo tổng công kích, tổng khởi nghĩa miền Nam. Trong cuộc tổng tiến công tết Mậu Thân năm 1968, hai Trung đoàn 4 và 5 đảm nhiệm trên hướng chiến lược quan trọng của mặt trận phía đông. Giờ đầu tiên ngày 31 tháng 1 năm 1968, sư đoàn đồng loạt tấn công đúng các mục tiêu quy định, đúng thời gian, chiếm lĩnh một phần các mục tiêu: Bộ tư lệnh vùng 3, sân bay Biên Hòa, tổng kho Long Bình. Mậu Thân là một thử thách lớn, ác liệt nhưng sư đoàn đã hoàn thành nhiệm vụ. Đợt 1 và 2 kết thúc, sư đoàn được lệnh cơ động về tây bắc Sài Gòn. Trung đoàn 4 đứng tại chiến trường Bà Rịa – Long Khánh, Sư đoàn bộ + E5 được tăng cường E33 + E88 + E174 tiếp nhận Trung đoàn 33 và Trung đoàn 88 vào biên chế. Mở đầu đợt 3 năm 1968, Trung đoàn 33 và Trung đoàn 88 đã lập công. Ngày 19 tháng 8, trên đường số 2, Bến Củi – suối Ông Hùng Trung đoàn 33 liên tục trong hai ngày vừa tiến công vừa phục kích đánh quân cứu viện, đã diệt một Tiểu đoàn bộ binh cơ giới của Sư đoàn 25 Mỹ, bắn cháy 47 xe tăng, xe thiết giáp của địch, diệt tại chỗ hơn 100 tên, thu nhiều vũ khí. Ngày 25 tháng 8, trên quốc lộ 22 đoạn Gò Dầu, Trung đoàn 88 phục kích, chặn đánh đoàn Cong Voa của sư 25 Mỹ. Sau một ngày đánh liên tục, đã tiêu diệt 4 đại đội của Mỹ (1 đại đội tăng thiết giáp, 1 đại đội bộ binh cơ giới, 15 xe Jeep gắn đại liên), bắn rơi 7 máy bay, bắt sống 3 tên Mỹ, thu 127 súng các loại. Tiếp sau đó các Trung đoàn 5, Trung đoàn 33, Trung đoàn 88 liên tục tấn công Sư đoàn 25 Mỹ ở Gò Da, Chà Là, Bến Củi lập nhiều thành tích. Sư đoàn đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. + Tháng 10 năm 1968, sau một năm chiến đấu trong Sư đoàn, E88 được điều về tăng cường cho phân khu 1, hoạt động vùng Củ Chi – Trảng Bàng, Sư đoàn tiếp nhận E174. Từ cuối năm 1968 và cả năm 1969, Sư đoàn 5 hoạt động đánh địch ở chiến trường Bà Rịa – Long Khánh, đánh Sư đoàn 18 ngụy ở Tầm Bó. Sau hơn 3 năm xây dựng và chiến đấu lập nhiều chiến công, sư đoàn cũng góp công với quân dân miền Nam làm lung lay ý chí xâm lược của đế quốc Mỹ, buộc Mỹ xuống thang chiến tranh, chấp nhận đàm phán tại Hội nghị Paris. Năm 1970 – 1971, đế quốc Mỹ thấy không thể thắng trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, nhưng chưa cam thất bại, Ních Xơn lên cầm quyền tiến hành chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh và mở rộng chiến tranh sang 3 nước Đông Dương. Trước hành động mở rộng chiến tranh của Mỹ Ngụy, Sư đoàn 5 được giao nhiệm vụ đẩy mạnh tiến công địch ở trong nước, vừa chuẩn bị chiến đấu theo yêu cầu giúp bạn Campuchia. Lúc này Trung đoàn 88 được lệnh tăng cường cho quân khu 8. Trung đoàn 33 được phân công hoạt động ở nam chiến trường T6 (Long Khánh, Tánh Linh – Bình Thuận). Lúc này Trung đoàn 174, tách Tiểu đoàn 5 làm nòng cốt thành lập Trung đoàn bộ binh 6. Sư đoàn đủ 3 Trung đoàn gồm: Trung đoàn 174, Trung đoàn 55, Trung đoàn 6. * Lần thứ nhất vào tháng 4 năm 1970. Sư đoàn 5 được lệnh giúp bạn Campuchia. Vừa cơ động hành quân, vừa tổ chức chuẩn bị chiến đấu. Ngày 6 tháng 5, Trung đoàn 5 bắt đầu nổ súng và sau đó 20 ngày, hai Trung đoàn 5 và 6 đã tiến công và chiếm 3 thị xã (Kratie, Stung Treng, Mon-do-ki-ri), tiêu diệt và bắt Tiểu đoàn Ngụy Lon Non, góp phần quan trọng giải phóng 6 tỉnh Đông Bắc Campuchia, tạo ra một hậu phương rộng lớn cho cách mạng Campuchia ở chiến trường Nam Đông Dương, góp phần đánh bại kế hoạch mở rộng chiến tranh của Mỹ. Để giúp bạn đứng vững và mở rộng vùng giải phóng, sư đoàn đưa 1 bộ phận chỉ huy trung đoàn và 2 tiểu đoàn thành lập mới Trung đoàn 205, hoạt động trên địa bàn Xiêm Riệp – Côngpông Thom. Trung đoàn 5 nhận tân binh từ miền Bắc, xây dựng lại trung đoàn đủ 3 tiểu đoàn, đổi tên thành Trung đoàn 1, Trung đoàn 174 đổi thành Trung đoàn 2. Sư đoàn đủ 3 trung đoàn (1,2,3). Để hỗ trợ cho chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh và nhằm đánh phá căn cứ hậu cần và cơ quan của Bộ chỉ huy Miền, tháng 2 năm 1971 quân Ngụy Sài Gòn được sự chi viện của không quân, pháo binh Mỹ, mở chiến dịch “Toàn thắng 1/71” đánh sang Campuchia. Địch tổ chức cụm hành quân vững chắc ở Snoul, Sư đoàn 5 có nhiệm vụ tiến công tiêu diệt. Từ ngày 25 tháng 5 năm 1971, sư đoàn liên tục bao vây, tiến công, tiêu diệt chiến đoàn 8 (có 6 đại đội bộ binh, một trung đoàn thiết giáp, cụm pháo 105 và 155 ly). Chiến thắng Snoul được Trung ương Cục khen như sau: “Đây là một trận chiến thắng lớn, tiêu diệt chiến đoàn, bắt tù binh, thu vũ khí, chiếm lấy phương tiện chiến tranh của địch nhiều nhất. Là trận bao vây tiến công liên tục kiên cường, phát huy cao độ dũng khí chiến đấu và các chiến thuật, kỹ thuật tài tình. Chiến thắng Snoul mở ra khả năng Sư đoàn bộ binh ta đánh diệt từng chiến đoàn của địch, mở ra triển vọng đánh bại chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh, tạo ra cục diện giành thắng lợi trên chiến trường miền Nam và Đông Dương”. Buộc địch phải chuyển về thế phòng ngự. Với tinh thần chiến đấu dũng cảm ngoan cường và sự chỉ huy tài tình của Đảng ủy, Bộ Tư lệnh Sư đoàn 5 đã làm nên chiến thắng Snoul có ý nghĩa chiến lược to lớn, không chỉ trên chiến trường miền Nam mà cổ vũ cho cách mạng Lào, Campuchia. Năm 1972, trước những thời cơ chiến lược của cách mạng, Đảng chủ trương mở cuộc tấn công chiến lược toàn Miền. Được tăng cường Trung đoàn 3, sư đoàn 9 và 1 Đại đội xe tăng T54, 11 chiếc được cấp trên chi viện pháo 85-105-155 ly cao xạ 37 ly, sư đoàn tiến hành một trận chiến đấu hiệp đồng binh chủng quy mô lớn đầu tiên trong lịch sử chiến đấu của mình mở đầu chiến dịch Nguyễn Huệ. Liên tục 3 ngày đêm kiên cường chiến đấu, sáng ngày 7 tháng 4 năm 1972 sư đoàn đã tiêu diệt toàn bộ chiến đoàn 9, tiêu diệt trung đoàn thiết giáp 1, chiếm làm chủ chi khu Lộc Ninh. Diệt hơn 3.000 tên, bắt sống 1.300 tên địch trong đó có tên đại tá Vĩnh chiến đoàn trưởng, trung tá Dương trung đoàn thiết giáp 1, bốn cố vấn Mỹ giải phóng hơn 3 vạn dân. Chiến thắng Lộc Ninh đã khẳng định trình độ chỉ huy, trình độ tác chiến hiệp đồng binh chủng hiện đại, tiêu diệt gọn từng chiến đoàn. Chiến thắng Lộc Ninh được Quân ủy – Bộ Tư lệnh Miền trao cờ “Quyết chiến quyết thắng” lần thứ 3. Trung đoàn 1, Trung đoàn 2, Trung đoàn 3 đều được tặng cờ trung đoàn đánh giỏi. Chiến thắng Lộc Ninh hòa cùng chiến thắng khắp chiến trường miền Nam và chiến thắng cuộc tập kích chiến lược bằng không quân của Mỹ ở miền Bắc 1972: - Mỹ chịu thua - Mỹ ký hiệp định Paris - Lệnh của Bác Hồ đánh cho Mỹ cút đã được thực hiện. Cuộc trường chinh tiếp tục đánh cho Ngụy nhào, 1975 chiến dịch Hồ Chí Minh, một trận quyết chiến chiến lược bắt đầu. Những năm tháng xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, bước chân của cán bộ, chiến sĩ sư đoàn cơ động chiến đấu tạo thành vòng cung bao quanh Sài Gòn, từ Vũng Tàu – Bà Rịa, Biên Hòa, Bình Dương, Long An, nhìn về Sài Gòn mà lòng ước ao một tâm niệm, Sư đoàn 5 phải là một mũi tên lao thẳng vào dinh lũy bọn Mỹ Ngụy ở trung tâm Sài Gòn. Nhưng Sư đoàn 5 được giao nhiệm vụ chia cắt chiến lược quốc lộ 4. Sư đoàn phải tháo pháo 105 khiêng trên vai, kéo đẩy xe thiết giáp, lặn ngụp qua đồng lầy Tháp Mười, vượt qua mọi khó khăn gian khổ, Sư 5 vẫn hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chia cắt chiến lược. Ngăn chặn hoàn toàn không để một đơn vị nào của địch chạy ngược về miền Tây và không để một đơn vị nào từ miền Tây lên cứu viện Sài Gòn. Sư đoàn 22 Ngụy từ miền Trung về cụm tại Bến Lức, cùng chung một số bộ phận Sư đoàn 7, Sư đoàn 9 vùng 4 bị đánh tan rã hoàn toàn. Ngay sau đó, Sư đoàn cùng với lực lượng vũ trang địa phương, đánh chiếm thị xã Tân An và giải phóng hoàn toàn địa bàn tỉnh Long An vào ngày 30 tháng 4 năm 1975. Ngày 30 tháng 4 năm 1975 chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc thắng lợi, miền Nam hoàn toàn giải phóng. Qua thực tiễn 10 năm chiến đấu, xây dựng, trưởng thành, sư đoàn đã xây dựng nên truyền thống vẻ vang “Đoàn kết, trung dũng, cơ động, linh hoạt, tự lực, tự cường, đánh thắng mọi kẻ thù” Mỹ Ngụy. Được Nhà nươc tuyên dương Đơn vị Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. Cuộc kháng chiến chống Mỹ xâm lược giành thắng lợi hoàn toàn, đất nước thống nhất hòa bình. Sau giải phóng miền Nam vẫn chưa được ổn định. Sư đoàn 5 liên tục cơ động từ Long An đến Tây Ninh, rồi Bà Rịa Vũng Tàu làm nhiệm vụ truy quét tàn quân Ngụy lẩn trốn, trấn áp bọn phản động gây rối, bảo vệ thành quả cách mạng. Nhiều cán bộ, chiến sĩ quê miền Bắc chưa kịp đi phép, nhiều cán bộ chiến sĩ đã cầm quyết định phục viên, giải ngũ chưa kịp giao lại súng để về quê thì họa diệt chủng ập đến, tháng 9 năm 1977, tập đoàn phản động Pôn Pốt, tiến hành cuộc chiến tranh xâm lấn toàn tuyến biên giới miền Nam Tổ quốc ta, giết hại hàng ngàn đồng bào ta ở Tây Ninh, Sông Bé, An Giang… Kiên quyết trừng trị bọn xâm lấn, Sư đoàn 5 lại bước vào cuộc chiến đấu mới, Sư đoàn lại hành quân ra biên giới. Sư đoàn được biên chế Trung đoàn 16 để đủ 3 Trung đoàn bộ binh cùng các đơn vị trực thuộc gồm trung đoàn pháo binh 28, tiểu đoàn tăng, thiết giáp và các đơn vị khác. Trong hai năm 1977-1978, Sư đoàn luôn có mặt trên hướng chủ yếu của quân khu: Sa mát, Kà Tum lên Mi mốt; Lộc Ninh, Bù Đốp lên Snoul. Liên tục phản công, tiến công bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ biên giới. Thực hiện chiến dịch K3, Sư đoàn 5 đánh chiếm thị trấn Snoul, làm chủ đường 7 ngang. Tạo ra một vùng giải phóng rộng lớn. Trở thành một vị trí lịch sử, ngày 5 tháng 12 năm 1978 Mặt trận Đoàn kết Dân tộc cứu nước Campuchia do Chủ tịch HingSămrynh đứng đầu làm lễ thành lập tại Snoul. Mở ra một giai đoạn mới cách mạng Campuchia. Là những chiến thắng quân sự không lớn lắm trong hai trận đánh của Sư đoàn 5 (Lộc Ninh 72, Snoul 72, Snoul 71) nhưng ý nghĩa chính trị - lịch sử thì lớn hơn nhiều. Giải phóng Lộc Ninh 1972, tạo ra vùng căn cứ lớn, an toàn cho chính phủ Cộng hòa miền Nam Việt Nam lãnh đạo, điều hành cách mạng miền Nam Việt Nam, làm nơi Bộ Tư lệnh chiến dịch chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Với chiến thắng giải phóng Snoul 71 là vị trí lịch sử ra mắt của Mặt trận Đoàn Kết Dân tộc cứu nước Campuchia do Chủ tịch HingSămrynh đứng đầu làm lễ thành lập tại Snoul. Mở ra một giai đoạn mới cách mạng Campuchia. Là những chiến thắng quân sự không lớn lắm trong hai trận đánh của Sư đoàn 5 (Lộc Ninh 72, Snoul 71) nhưng ý nghĩa chính trị - lịch sử thì lớn hơn nhiều. Giải phóng Lộc Ninh 1972, tạo ra vùng căn cứ lớn, an toàn cho chính phủ Cộng hòa miền Nam Việt Nam lãnh đạo, điều hành cách mạng miền Nam Việt Nam, làm nơi Bộ Tư lệnh chiến dịch chỉ huy chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Với chiến thắng giải phóng Snoul 71 là vị trí lịch sử ra mắt của Mặt trận Đoàn Kết dân tộc cứu nước Campuchia. Vì sự ổn định lâu dài, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc Việt Nam và giúp dân tộc Campuchia nhanh chóng thoát khỏi họa diệt chủng. Cùng với các mặt trận khác, Sư đoàn 5 được lệnh tiến công đánh chiếm Kratie sâu trong đất Campuchia gần 100km. * Lần thứ 2: Từ 25/12/1978 đến 31/12/78, Sư đoàn đã tiến công và tiêu diệt tan rã sư đoàn 260 Pôn Pốt, đánh chiếm làm chủ thị xã Kratie. Chiến thắng Kratie, Sư đoàn 5 được Bộ chỉ huy chiến dịch khen: “Các đơn vị bộ binh, xe tăng, pháo mặt đất, pháo phòng không, đều đánh giỏi thắng to, lập công xuất sắc, thắng lợi lớn có ý nghĩa chiến dịch là một đơn vị đầu tiên giải phóng một thị xã quan trọng của quân khu Đông Bắc Campuchia, đánh thiệt nặng sư đoàn 260 Pôn Pốt, thu vũ khí, kho tàng nhiều nhất từ trước đến nay. Thắng lợi Kratie đã cổ vũ lòng phấn khởi, tin tưởng trên toàn mặt trận đã hỗ trợ tích cực cho mặt trận khác. Ngày 07/01/1978 đơn vị bạn đánh chiếm thủ đo Phôm Pênh. Ngày 13/01/1978 tấn công trong hành tiến Sư đoàn đã vượt qua Kông Pông Chàm, Kông Pông Thơm, Xiêm Riệp, Sisôphôn mục tiêu chiến lược cuối cùng của cuộc tổng tiến công. Chế độ diệt chủng Pôn Pốt sụp đổ hoàn toàn. Dân tộc Campuchia thoát khỏi diệt chủng. Với những thành tích đặc biệt xuất sắc từ năm 1977 đến năm 1979, sư đoàn một lần nữa được Nhà nước tuyên dương anh hùng lực lượng vũ trang lần thứ 2 Từ tháng 4 năm 1979 đứng trong đội hình mặt trận 479 Sư đoàn 5 đảm nhiệm địa bàn 5 huyện phía Bắc Batdomboong – hướng chủ yếu của mặt trận 479. Được biên chế thêm 2 trung đoàn là trung đoàn 2 và trung đoàn 8 biên phòng, trung đoàn 160 Long An (Sư đoàn có 6 trung đoàn bộ binh, một trung đoàn pháo binh, một tiểu đoàn tăng thiết giáp). Nhiệm vụ vừa xây dựng lực lượng vừa tác chiến làm suy yếu tan rã quân Pôn Pốt, vừa giúp bạn xây dựng lực lượng chính trị và tiếp tục giúp xây dựng lực lượng vũ trang địa phương và Sư đoàn 179 của bạn. Gần 10 năm giúp bạn, sư đoàn đã lập nhiều thành tích xuất sắc từng giúp bạn xây dựng chính quyền và tiêu diệt tàn quân Pôn Pốt và đánh địch, đặc biệt mùa khô 1984-19858 sư đoàn đã đánh chiếm làm chủ căn cứ Krâymoon, Phrum Chất, Sư đoàn 519 Pôn Pốt và 7 căn cứ của 7 lữ đoàn SRK ở Ampil, Cola Tà Lóc, Sư đoàn 5 được nhà nước Cộng hòa nhân dân Campuchia tặng thưởng Huân chương AngKor và Huân chương Bảo vệ Tổ quốc hạng nhất. Hoàn thành nghĩa vụ quốc tế, Sư đoàn 5 trở về Tổ quốc, trở lại đội hình Quân khu 7. Đứng trên địa bàn trọng yếu của miền Đông Nam bộ, Sư đoàn khẩn trương xây dựng, ổn định nơi ăn ở; giải quyết công tác chính sách; củng cố tổ chức biên chế, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện; cách mạng chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại – nâng cao cảnh giác, luôn sẵn sàng chiến đấu. Là 1 Sư đoàn điển hình của toàn quân. Chúng ta có quyền tự hào là những người lính Sư đoàn 5 Bộ binh anh hùng. Tp. Hồ Chí Minh tháng 11năm 2005 |
Trận phục kích trên đường 13 trong trận càn Móc Câu 1970
Ngô Duy Bước vào đầu mùa khô năm 1970 Mỹ cùng Ngụy quyền Sài Gòn mở trận càn được đặt tên là trận càn Móc Câu nhằm mục đích tiêu diệt các đơn vị chủ lực của ta. Vào khoảng 8 giờ tối ngày 9 tháng 9 năm 1970 tôi là đại đội trưởng được đồng chí liên lạc của tiểu đoàn xuống báo yêu cầu tôi về đến tiểu đoàn, các cán bộ của các đại đội cũng có mặt đầy đủ, đồng chí tiểu đoàn trưởng phổ biến mục đích ý nghĩa của trận đánh. Đồng chí chính trị viên tiểu đoàn quán triệt và động viên tư tưởng, đồng chí tham mưu trưởng tiểu đoàn phổ biến phương án tác chiến, phân công từng đại đội đảm nhận phục kích từng đoạn đường, đại đội tôi được phân công nhiệm vụ khóa đầu của trận đánh, triển khai xong chỉ huy các đơn vị nhanh chóng trở về đơn vị của mình để triển khai nhiệm vụ tác chiến. Chúng tôi về đến vị trí đóng quân của đại đội đã gần 9 giờ đêm tôi cùng đồng chí chính trị viên đại đội hội ý triển khai phương án tác chiến hạ quyết tâm cho trận đánh. Sau đó mời các đồng chí cán bộ trung đội, tiểu đội lên truyền đạt mệnh lệnh chiến đấu của cấp trên, quyết tâm của chi ủy Ban chỉ huy đại đội. Các trung đội, tiểu đội về triển khai ở đơn vị quán triệt cho từng chiến sĩ của đơn vị gần 10 giờ đêm đơn vị xuất phát hành quân tiền nhập trận địa, đoạn đường từ vị trí đóng quân đến trận địa chúng tôi đi gần 5 giờ, lúc này đã hơn 3 giờ sáng ngày 10 tháng 9 năm 1970 tôi cùng các đồng chí trong Ban chỉ huy đại đội phân công vị trí chiến đấu cho từng trung đội, tiểu đội theo phương án tác chiến đã định, tôi trực tiếp chỉ huy Trung đội khóa đầu của toàn bộ tiểu đoàn, chiến đấu chính trị viên chỉ huy trực tiếp Trung đội 3, đồng chí đại đội phó chỉ huy Trung đội 2 – toàn đại đội triển khai công sự dã chiến chuẩn bị cho trận chiến đấu, tôi cùng đồng chí chính trị viên đi động viên từng chiến sĩ của đại đội hạ quyết tâm giành thắng lợi cho trận đánh. Ngay từ sớm tinh mơ ngày 10 tháng 9 năm 1970 các loại máy bay của địch như trực thăng HU1A, cán gáo, máy bay trinh sát L19 và phản lực gầm rú trên bầu trời. Chúng bay dọc theo quốc lộ kiểm tra xem có bộ đội ta phục kích hay không. Cùng với không quân pháo binh địch ở căn cứ quân sự Đồng Dù – Trảng Lớn và các chi khu dọc hai bên quốc lộ nã đạn liên tục. Vào khoảng 9 giờ sáng ngày 10 tháng 9 năm 1970 tiểu đoàn thông báo địch hành quân từ Long An về Biên Hòa chuẩn bị vào trận địa phục kích của tiểu đoàn, trên bầu trời dọc theo quốc lộ máy bay các loại vẫn tiếp tục gầm rú ghê rợn, chúng liên tục bắn 12,7mm dọc hai bên đường. Hơn 9 giờ lực lượng tiền trạm của địch xuất hiện trên trận địa phục kích của đại đội đi đầu là 1 chiếc xe tăng M41 cùng hai xe bọc thép M113 đi sau là hai chiếc xe GMC chở đầy lính. Lệnh của tiểu đoàn để địch đi khỏi trận địa. Tiền trạm của địch đi qua trận địa phục kích của đại đội khoảng hai cây số thì đội hình hành quân chính thức của chúng xuất hiện. Đi đầu là 3 chiếc xe tăng M41, hai chiếc xe bọc thép M113. Sau đó là xe GMC chở đầy lính của đại đội 6 lính Mỹ Cai Poọc[1]. Đi sau là hai tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ. Gần 10 giờ chiếc xe tăng M41 đã vào đúng tầm bắn của đồng chí Lò Văn Nùng xạ thủ B41, tôi hỏi đồng chí Nùng: Chắc chưa? Đồng chí trả lời: Chắc 100%. Tôi ra lệnh nổ súng, phát súng đầu tiên bắn cháy chiếc xe tăng M41 đi đầu của địch. Đồng thời là hiệu lệnh chiến đấu của toàn bộ tiểu đoàn, trận địa phục kích của tiểu đoàn dài trên dưới 3km. Sau phát súng B41 toàn bộ trận địa vang lên như sấm tiếng súng B40 – B41 – AK – lựu đạn, thủ pháo xen lẫn với tiếng la hét thảm hại của lính Mỹ - Ngụy. Địch bị đánh bất ngờ không kịp trở tay, chống trả yếu ớt, máy bay pháo binh của địch cũng bị bất ngờ và vô hiệu hóa. Trận đánh diễn ra chớp nhoáng trong vòng không đầy 30 phút. Sau khi tấn công và tiêu diệt phần lớn lực lượng địch, cấp trên cho rút khỏi trận địa đồng thời đưa thương binh liệt sĩ về phía sau. Trên bầu trời dọc theo trận địa phục kích của tiểu đoàn một màu khói đen xịt bốc lên từ những chiếc xe tăng, xe bọc thép, xe GMC cháy, ở mặt đường những đám lửa thiêu rụi những chiếc xe được trang bị tối tân cùng với mùi khét lẹt của xác quân Mỹ Ngụy làm cho những người lính chúng tôi thấy phấn khởi vì đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ. Tiếng pháo của địch xa dần. Chúng tôi về đến căn cứ đóng quân của đơn vị, 2 ngày sau thông báo của trên xóa sổ hoàn toàn 2 tiểu đoàn lính thủy đánh bộ Mỹ cùng đại đội 6 lính Cai Poọc của Ngụy. Trong trận này tôi bắn rơi 1 máy bay trực thăng được trung đoàn tặng giấy chứng nhận dũng sĩ diệt máy bay, dũng sĩ diệt Mỹ. Trận đánh tiêu diệt quân Mỹ trên đường 13 năm nào đã trở thành ký ức không phai mờ của những người lính chúng tôi. [1] Lính Mỹ Cai Poọc là lính người dân tộc mồ côi cả cha lẫn mẹ chúng đưa vào trại huấn luyện đặc biệt của Ngụy, địch tuyên truyền cho chúng là Việt Cộng giết cả cha lẫn mẹ chúng nên chúng chiến đấu đến cùng. |
Trận Lộc Ninh - Trận đánh Hợp đồng binh chủng đầu tiên của Miền Đông Nam Bộ
Đại tá Nguyễn Thành Tín Trên chiến trường miền Nam trong chiến dịch Mậu Thân năm 1968, chiến dịch Nguyễn Huệ năm 1972 là những năm tháng chiến đấu quyết liệt trên các chiến trường nói chung và chiến trường miền Đông Nam Bộ nói riêng. Quân địch bị tiến công tiêu hao tiêu diệt và bị thiệt hại lớn. Ở Lộc Ninh, cụm cứ điểm Lộc Ninh khi ta đánh là trận tiến công quân địch trong công sự vững chắc mở đầu cho chiến dịch Nguyễn Huệ năm 1972, là trận then chốt có ý nghĩa lịch sử, chiến lược. Lực lượng địch bố trí ở Lộc Ninh gồm: Sở chỉ huy chiến đoàn 9 Ngụy, chi khu Lộc Ninh, sân bay dã chiến, khu kho tiếp liệu. Quân số khoảng gần 2000 tên, khi tác chiến có hỏa lực pháo binh, không quân và bộ binh chi viện. Được bố trí thành ba cụm nối tiếp nhau theo hướng Đông Bắc – Tây Nam với hệ thống công sự kiên cố, lô cốt, hầm ngầm, chiến hào, giao thông hào và hệ thống hàng rào dây kẽm gai bố trí theo từng phân khu và bên ngoài xung quanh cứ điểm bố trí từ 3 đến 5 hàng rào, xen kẽ giữa các lớp rào kẽm gai có mìn chống bộ binh, chống xe tăng để ngăn chặn sự tiến công của Việt Cộng, để chuẩn bị cho trận đánh Lộc Ninh cán bộ các cấp được lựa chọn kỹ đi nghiên cứu địa hình sớm gần 6 tháng và giữ bí mật tuyệt đối. Trước khi tiến công các đơn vị được giao nhiệm vụ, quán triệt họp quân chính các cấp thảo luận trên sa bàn rất cụ thể dân chủ về quân sự. Bộ tư lệnh sư đoàn giao nhiệm vụ tiến công Lộc Ninh là trung đoàn bộ binh 2 (174) và trung đoàn bộ binh 3 được các đơn vị trực thuộc sư đoàn bảo đảm chi viện. Đặc biệt chú ý trong trận chiến đấu này sư đoàn bộ binh 2 được phối thuộc đại đội xe tăng số 10, đại đội pháo phòng không số 52 của tiểu đoàn 20, đoàn thiết giáp M26 của miền. Trung đoàn bộ binh 2 được Sư đoàn 5 giao nhiệm vụ tiến công trên hướng chủ yếu của Sư đoàn. Tiểu đoàn bộ binh 5 được giao nhiệm vụ tiến công trên hướng chủ yếu của trung đoàn, tiểu đoàn 5 được biên chế 3 đại đội bộ binh: đại đội 5, đại đội 6, đại đội 7 và một đại đội hỏa lực. Đồng chí Vũ Viết Cam là Tiểu đoàn trưởng (nay là Thiếu tướng Phó Tổng cục trưởng Tổng cục 2 đã nghỉ hưu). Đồng chí Lương Quý Mão là Chính trị viên tiểu đoàn (nay là Đại tá công tác tại quân khu 3 đã nghỉ hưu). Tôi lúc đó là cán bộ trung đội thuộc đại đội 5 tiểu đoàn 5, (sau trận Lộc Ninh được lên chính trị viên phó đại đội). Trên hướng tiểu đoàn 5 được tăng cường xe tăng, đại đội 6 được tăng cường 2 xe, trung đội tôi được 1 xe do tôi chỉ huy cùng 17 đồng chí ngồi trên xe tiến công vào chi khu Lộc Ninh cùng với đội hình chiến đấu của đại đội, tiểu đoàn. Đúng 24 giờ ngày 06 tháng 04 năm 1972 lực lượng xe tăng của đại đội 10, dưới sự yểm trợ của pháo binh đơn vị được lệnh xuất kích, khi tiến đến làng Mười thì gặp địch, thấy xe tăng ta xuất hiện một số địch ở bên ngoài bỏ chạy vào chi khu Lộc Ninh, rạng sáng ngày 07 tháng 4 năm 1972 sau khi pháo binh ta bắn cấp tập lần cuối cùng, lực lượng xe tăng từ các hướng đã tiến đến rừng cao su vào các khu vực triển khai của bộ binh, theo hiệp đồng, lực lượng bộ binh của trung đội tôi nhanh chóng nhảy lên cùng xe tăng tiến vào cửa mở, xe tăng vừa cơ động vừa dùng hỏa lực trên xe bắn tiêu diệt các mục tiêu lô cốt xe M48 của địch trên hướng tiến công, khi vượt qua cửa mở địch bắn trả quyết liệt, trên xe trung đội của tôi, do tôi chỉ huy Trung đội dùng hỏa lực lựu đạn, súng AK, B40 bắn trả quyết liệt vào đội hình địch, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, với sự hiệp đồng chặt chẽ giữa bộ binh, xe tăng trên các hướng khác, tiểu đoàn bộ binh 5 phát triển chiến đấu liên tục. Mặc dù chiến đấu ác liệt, song trên các hướng đều giành được thắng lợi… trên các hướng khác của trung đoàn đều phát triển, với sự hiệp đồng chặt chẽ giữa bộ binh và xe tăng đã tiêu diệt và bắt sống phần lớn quân địch trong đó có tên đại tá Nguyễn Công Vĩnh chỉ huy trưởng chiến đoàn 9, số còn lại bỏ chạy. Đến trưa ngày 7 tháng 4 năm 1972 quân ta đã chiếm và làm chủ toàn bộ chi khu Lộc Ninh tiêu diệt và bắt sống trên 1000 tên, thu nhiều vũ khí trang bị, trung đội tôi thu 7 súng AR15, 2 súng M79, đại đội 6, cũng thu được nhiều vũ khí trang bị của địch và tiêu diệt hàng trăm tên. Trận Lộc Ninh là trận tiến công địch trong cộng sự vững chắc, là trận đánh hiệp đồng binh chủng, lần đầu tiên có xe tăng tham gia chiến đấu trên chiến trường miền Đông Nam Bộ đánh nhanh thắng nhanh, tiêu diệt 1 phần lớn lực lượng của sư đoàn 5 Ngụy, góp phần làm tan rã Ngụy quyền ở địa phương mở rộng vùng giải phóng làm bàn đạp cho quân ta tiến công xuống phía Nam, thực hiện khẩu hiệu của chiến dịch Nguyễn Huệ “khí thế như Mậu Thân, ra quân như Nguyễn Huệ, diệt gọn như Điện Biên”. Trong trận chiến đấu Lộc Ninh tiểu đoàn bộ binh 5 đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, nhiều đồng chí được tặng thưởng huân chương, bằng khen, giấy khen, nhiều cán bộ chỉ huy dũng cảm, mưu trí linh hoạt như đồng chí Vũ Viết Cam – Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Lương Quý Mão – Chính trị viên tiểu đoàn và nhiều cán bộ đại đội, trung đội. Chiến đấu hiệp đồng binh chủng ở Lộc Ninh lần đầu tiên giữa bộ binh và xe tăng hiệp đồng chiến đấu trên chiến trường miền Đông Nam Bộ là tiền đề cho các trận chiến đấu, chiến dịch lớn sau này. Điển hình là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử có hàng lữ đoàn xe tăng tham gia chiến đấu cùng bộ binh giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. |
Trận Bình Long, An Lộc
Phạm Văn Vẻ Chiến dịch Nguyễn Huệ mới diễn ra ở miền Đông Nam Bộ chưa đầy 10 ngày mà quân Ngụy đã mất đứt tuyến phòng thủ phía Bắc Sài Gòn, mất 2 chiến đoàn, mất một trung đoàn xe tăng và xe bọc thép. Một loạt các đồn bốt trên trục lộ 13 đoạn từ biên giới tới Chơn Thành bị quét sạch, An Lộc trở nên cô độc, trơ trọi. Quân của chiến đoàn 7 từ Phú Lỗ rút chạy về An Lộc, lính bại trận từ các đồn bốt xung quanh An Lộc cũng bỏ chạy vào An Lộc, làm cho An Lộc trở nên hoang mang, náo loạn. Theo như kế hoạch tác chiến của bộ chỉ huy miền, sư đoàn 5 sau khi tiêu diệt cụm cứ điểm Lộc Ninh chuyển sang phối hợp với sư 9 bao vây tiến công An Lộc. Đêm 12 rạng ngày 13 tháng 4, sư đoàn 9 và các lực lượng tăng cường đã nổ súng tiến công thị xã An Lộc, trung đoàn 2 được lệnh đánh vào giải phóng các làng 2, 3, 4, 5 Dầu Tiếng rồi vòng lên phía Bắc An Lộc cách Chơn Thành 2 cây số (trên đường ủi Lệ Xuân) để chốt chặn, không cho quân Ngụy từ Chơn Thành kéo lên, ứng cứu cho quân Ngụy ở An Lộc. Khi chúng tôi đang lao vào đào trận địa, đào công sự thì nghe được tin trên đài tiếng nói Việt Nam: “Với sự tấn công mãnh liệt như vũ bão của quân và dân miền Đông, trong thị xã An Lộc có nơi địch đã kéo cờ trắng đầu hàng”. Nghe tin chúng tôi mừng lắm, tin này được lan truyền khắp các tuyến hào. Nhiều anh em còn dỡ hết đồ đạc trong gùi, lục tìm gói thuốc Rubi (chiến lợi phẩm trong trận Lộc Ninh) ra mời mọc, ăn mừng. Thế là khói thuốc bốc lên, bay là là trên mặt khắp các đoạn chiến hào. Cán bộ tiểu đoàn được tin liền phân công nhau xuống các trận địa để truyền đạt chỉ thị của cấp trên là sư đoàn chưa có thông tin gì về chiến thắng An Lộc, các đơn vị phải thật khẩn trương hoàn thành trận địa chốt chặn của mình. Chúng tôi nhắc nhở anh em không được chủ quan, phải vừa đào trận địa vừa canh gác, kẻo địch thục vào trận địa mà không biết, có đồng chí tay cầm cái vỏ bao thuốc lá đã hết nhẵn vất vào đống đất, miệng còn lẩm bẩm: “Chơn Thành lại sắp mang thuốc lá đến mời chúng ta rồi đấy! Chuyến này tha hồ mà đốt”, nói rồi đồng chí ấy vơ ngay cái cuốc chim bổ nhát nào ra nhát nấy. Mọi công việc đang tiến triển, trận địa chính và phụ sắp hoàn thành thì có lệnh của trên. - Trung đoàn 2 (174) phải hoàn thành cấp tốc trở về An Lộc. Tất cả anh em trong đơn vị hết sức ngạc nhiên, mọi người chỉ biết nhìn nhau, thầm nghĩ “Không biết tại sao thế nhỉ?”, rồi bụng bảo dạ: “Có trời mà biết được”; “Kéo pháo ra rồi lại kéo pháo vào” là người lính chỉ biết “Chấp hành và chấp hành”. Đơn vị chúng tôi hành quân về đến núi Gió, phía sau An Lộc thì đêm đã khuya, đành phải triển khai trú quân, chỉ đi qua một khe suối nhỏ, thay nước suối cứ róc rách chảy, lúc này các bi đông nước cũng đã cạn kiệt, nếu anh em nào đó có còn vài ngụm thì cũng ngửa cổ tu cho bằng sạch, không ai bảo ai, mỗi người lấy một bi đông nước thật đầy để khi vào đào công sự mà uống. Sáng hôm sau đi kiểm tra vị trí đóng quân, lên phương án tác chiến tại chỗ, thấy xác lính dù ngụy chết cách đây trên nửa tháng, thối rữa, nằm vắt ngang trên những tảng đá, trong những vũng nước của khe suối. Mọi người lợm giọng, khạc nhổ liên tục, nhưng làm sao mà đẩy nó ra được. Hỏi ra mới biết lữ dù số 1 của Lê Quang Lương đã được đổ xuống đây, định đánh vào phía sau của Sư đoàn 9, hòng cứu nguy cho An Lộc, sau khi An Lộc bị tiến công một hai hôm, chúng đã bị sư đoàn 7 và sư đoàn 5 của ta đánh cho thiệt hại nặng đành phải bỏ xác mà tháo chạy, dưới suối là những tên bị thương mò xuống uống nước rồi nằm đó, trong rừng xác chúng còn chồng chất lên nhau, mối đã ăn đùn thành từng đống từng đống. Khi đưa cơm nắm ra ăn, thấy thấp thoáng có bóng người, chúng tôi đều chĩa sung về hướng đó, theo dõi bằng ống nhòm, phát hiện có 3 đứa trẻ chừng 13, 14 tuổi đang cắt rừng đi về phía đơn vị. Tôi cho anh em ra ngăn lại không được đi vào nữa, các cháu hỏi xin ăn, chúng tôi mang ra đưa cho mỗi cháu một nắm cơm, chúng vừa nhai ngấu nghiến vừa hỏi: “Các chú vào đây xâm lược được bao lâu rồi”, đồng chí Soan đi cùng tôi trừng mắt: Ai bảo tụi bay thế? Tôi vội mỉm cười, xua tay ra hiệu cho Soan, rồi nhẹ nhàng hỏi: “Thế các cháu bảo các chú người nước nào nào?” Chúng nó đồng thanh nói: “Ở Bắc”, thế “Bắc có phải ở Việt Nam không?”. “Có”. “Thế người Việt Nam đi trên đất Việt Nam sao gọi là đi xâm lược được, đó chỉ là lời nói xạo của bọn Mỹ, Thiệu các cháu đừng có nghe”. Cũng tại nơi trú quân tôi gặp mấy an hem trinh sát của công trường 9 đưa đường cho D6, F2, F5 vào thay thế kể lại: Xe tăng của ta đã vào trong An Lộc rồi, gia đình ngụy quân, ngụy quyền trong khu gia binh ùa ra van xin. Anh em lính tăng của ta từ Bắc mới vào, không dám lao lên, liền nhảy xuống kéo họ ra để lấy đường vào thì bị bọn địch bắn cháy ngay cái đi đầu, cửa mở bị bịt, bộ binh chưa lên kịp, thế là những nơi địch đã kéo cờ trắng đầu hàng liền rút cờ, rồi dùng hỏa lực chống cự lại rất quyết liệt, đó là nguyên nhân dẫn đến An Lộc không dứt điểm chứ không phải xe ta quay đầu rồi bị Lê Minh Vĩ sư phó sư 5 ngụy bắn cháy, như địch đã rùm beng trên hệ thống thông tin tuyên truyền của chúng, khi những xe sau và bộ binh của ta tiến lên hai bên đánh nhau, số gia đình Ngụy ra cản đường có một số chết, địch la lên do Việt Cộng sát hại và gọi là “Đại lộ kinh hoàng”. Chúng tôi hành quân về gần đến núi Gió mới được cấp trên cho biết: Công trường 9 (tức sư 9) cùng các đơn vị trực thuộc đã không đánh dứt điểm được. Hớn Quản (An Lộc). Bộ chỉ huy Miền chuyển hướng sang bao vây Hớn Quản để diệt viện, E2 được điều về thay thế đơn vị bạn vào bao vây Hớn Quản. Hớn Quản (An Lộc) là thị xã của tỉnh Bình Long, Hớn Quản nằm gọn trên một quả đồi có chiều dài chừng hơn một cây số, chiều rộng chưa đến một cây, Hớn Quản được kiến tạo bởi đất đỏ bazan màu mỡ, Hớn Quản còn là thủ phủ của các đồn điền cao su chạy suốt từ biên giới tới Bình Dương. Theo hồ sơ lưu trữ của Bộ Tổng tham mưu quân ngụy Sài Gòn mà ta lấy được, sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng thì lực lượng địch trong Hớn Quản trước giờ bị tiến công là chiến đoàn 7, chiến đoàn 8, liên đoàn biệt động 333, sư đoàn bộ sư 5 ngụy, toàn bộ bộ máy kìm kẹp của tỉnh Bình Long, bọn bảo an dân vệ, tất cả đều dưới quyền chỉ huy của tên chuẩn tướng Lê Văn Hưng sư trưởng sư 5 ngụy. Đơn vị chúng tôi trở về An Lộc vào cuối tháng 5 đầu tháng 6, thời tiết lúc này là khô hanh, mặt đất nếu không có bom cày, đạn xới thì lúc này sẽ nứt nẻm đường hành quân sẽ bằng phẳng, ngon lành. Trái lại khi hành quân về đây chúng tôi phải trèo lên, tụt xuống bởi những hố bom, hố pháo dầy chi chít máy bay B52 chiến lược, giờ đây đã chuyển thành B52 chiến thuật, cứ 45 phút nó được đánh một loạt. Trung đoàn 5 (Q5) được điều từ Campuchia về chiến trường An Lộc, khi mới hành quân về gần đến An Lộc, bị một loạt B52 đánh trúng đội hình, bị thiệt hại nặng, không vào An Lộc được nữa. Trung đoàn 2 được lệnh thay nhau vào An Lộc, tiểu đoàn 4 vào sau, tiểu đoàn 6 vào trước, khi tiểu đoàn 6 vào An Lộc. Chúng tôi phân công nhau theo dõi, cử trinh sát vào cùng để khi có lệnh là đưa đơn vị vào được ngay. Tiểu đoàn 6 vào trận được nửa tháng thì tiểu đoàn 4 được lệnh vào thay, chúng tôi chia tiểu đoàn thành 4 đội, mỗi đội có một tổ trinh sát đi trước, rắc giấy dẫn đường. Trong đêm tối, mỗi lần B52 ngừng nổ là một phân đội được tung vào trận địa ngay, để làm sao cho toàn đội hình phải vào được trận địa trước lúc loạt B52 kế tiếp rải xuống, đường vào phải ngắn nhất đã rắc giấy không lạc đường, không để đội hình dính bom, chẳng ai bảo ai, cứ bám sát nhau, chạy còn nhanh hơn cả khoa mục chạy vượt qua chướng ngại vật. Trên bản đồ, hướng mà đơn vị chúng tôi đảm nhiệm là hướng trường học, khi vào đến nơi chẳng thấy trường học đâu mà chỉ thấy những đống đổ nát ngổn ngang của tôn, sắt thép và gạch vụn. Bên cạnh là những hố bom sâu hoắm, hố nọ kề sát hố kia. Đến khoảng 1 giờ 30 phút đêm thì đơn vị vào hết. Trận địa nhận bàn giao theo hợp đồng tác chiến là ngay trên tuyến giáp ranh giữa ta và địch, hai bên chỉ cách nhau một hố bom và một đống đổ nát, đội hình của tiểu đoàn được bố trí hai trước, một sau, hai đại đội bộ binh phía trước trực tiếp vây lấn và bắn tỉa, một đại đội phía sau dự bị sẵn sàng đánh quân đổ bộ từ phía sau đội hình, chỉ huy tiểu đoàn và 2 máy vô tuyến đặt cách tuyến bắn tỉa chỉ từ 40 đến 50 mét. Cũng theo hồ sơ của Bộ Tổng tham mưu ngụy, đơn vị chúng tôi vào thay thế được hơn 2 tuần thì quân ngụy cũng thay quân: Ở An Lộc sư đoàn 18 của Lê Minh Đảo vào thay sư 5 của Lê Văn Hưng, liên đoàn biệt động quân số 5 vào thay liên đoàn biệt động quân số 333, ở đường 13 thì sư 25 của Lê Văn Tư lên thay sư 21 của Nguyễn Vĩnh Nghi. Chiến thuật đánh trong thị xã An Lộc khi đơn vị chúng tôi vào không còn là chiến thuật đánh chiếm từng ngôi nhà, từng góc phố nữa, nó đã chuyển sang tranh dành từng đống gạch vụn, từng hố bom. Mặt đối mặt, đánh nhau bằng thủ pháo, lựu đạn, bằng súng trường, tiểu liên, bằng cối 60, 82, 81, bằng B40, B41, M72 và cả mìn định hướng nữa. Trên trời máy bay địch làm chủ, A72 của ta trong trận đánh Lộc Ninh phát huy tác dụng rất tốt, nhưng vào An Lộc thấy cứ nổ phía sau máy bay (chắc hẳn địch đã có cách phòng ngừa). Hai loại máy bay trinh sát OV.10 và L.19 cứ thay nhau vè vè trên đầu nhòm ngó, phát hiện bắn chỉ điểm, phản lực hết tốp này đến tốp khác đến đánh phá, không lúc nào là lúc không có tiếng máy bay. Ngày thứ 3 sau 4 đợt địch cho máy bay phản lực đánh phá vào phía sau đội hình và chỉ huy tiểu đoàn, đến đợt thứ 5 tôi thấy 1 chiếc AD6 từ phía đông lao tới cắt bom, quả bom cứ lúc lắc lao về phía hầm của chúng tôi, tôi hô nó ném bom vào mình đấy. Rồi tụt vội xuống hầm, hầm sập tôi nghẹt thở, chẳng biết gì. Đến khi tỉnh dậy tôi thấy anh em cầm tay tôi đưa lên đưa xuống, người ấn ngực để tôi thở, móc đất cát trong mồm trong miệng tôi ra. Khi tỉnh hẳn tôi hỏi: Anh em có ai bị sao không? Có tiếng trả lời: Hầm của anh Cới. Hiện vẫn chưa tìm thấy người nào? Thế còn điện đài thì sao? Tôi hỏi anh em trả lời ngay: Máy 15w thì còn, máy 2w thì hỏng, tôi bảo Soan bò lên tìm anh Phàn tiểu đoàn trưởng về hội ý. Tôi bảo anh Phàn nó sắp sửa đánh ra, đẩy quân ta ra chiếm trận địa đấy. Anh Phàn nói ngay: “Tôi cũng nghĩ như thế” rồi anh mới hỏi tôi: “Anh đỡ chưa?” “Rồi”. Tôi trả lời, tôi bảo anh truyền lệnh cho các đại đội đưa thủ pháo, lựu đạn, đạn B40, ra cửa hầm. Cảnh giác địch sắp mò lên đánh ta đấy. Tôi sẽ đánh điện xin pháo cấp trên chi viện. Tôi đang cho đánh điện thì súng ở trận địa đã nổ như ngô rang, đạn M79, M72, cối 81 nổ oành oành trên nóc hầm của chúng tôi, làm đứt cả dây ăng ten của máy, bức điện bị gián đoạn một lúc. Chưa điện về được, pháo ta chưa bắn chi viện vào khu trường học ngay được. Địch chắc mẩm thế nào cũng lấy được trận địa của ta, chúng vừa bắn xối xả, vừa hô hét dô dô… rồi đồng loạt bỏ các ụ súng, bỏ các bao cát lao lên. Không ngờ các cỡ súng liên thanh của ta quét ngang, một loạt thương vong gục ngay tại trận, một số nhảy vội xuống hố bom để tránh đạn thẳng, bị anh em ta cứ thế tương thủ pháo lựu đạn xuống chúng chết la liệt, những thằng sống sót chạy về vị trí cũ ẩn nấp liền bị B40, B41, cối 82 của ta bắn, chúng chạy lui về phía sau trường học thì bị cối 120, 160 ly, pháo 122 ly của trên chi viện bắn trúng đội hình. Đơn vị thừa thắng xông lên chiếm lấy khu trường học, đưa đội hình phía sau lên sát phái trước để máy bay địch không thể đánh bom phía sau được, sẽ giảm thương vong nhiều. Địch mất trận địa tức tối, đưa quân phía sau lên phản công nhiều lần, định lấy lại trận địa đã mất nhưng không được, chúng liền cho máy bay liên tục đánh bom vào phía sau đội hình của đơn vị. Phản lực đánh bom đến tận lúc mặt trời lặn mới bay đi, máy bay C130 liền thay thế, nó chỉ bay lượn có một vòng đã bắn như đổ đạn 20 ly xuống trận địa, những luồng đạn đỏ lừ, chạy dài suốt từ trên máy bay xuống tận mặt đất, như những sợi chỉ đỏ rực được căng trong gió, khi bóng đêm chưa bao phủ lấy mặt đất, C130 đã thả từng chùm từng chùm đèn dù, bảo vệ cho bọn dưới mặt đất không bị đánh tập kích bất ngờ. Chờ cho bóng đêm chập choạng dưới ánh sáng của những chiếc đèn dù anh em mới gói ghém được những liệt sĩ, bằng những mảnh võng rồi đưa lên trên mặt đất để phía sau những đống đổ nát, những đống gạch vụn chờ anh em vào tiếp súng đạn, tiếp cơm nước mang ra cho kịp. Cuộc chiến đấu của tiểu đoàn kéo dài suốt hơn một tháng trời ở An Lộc, luôn luôn ở tư thế ngắm bắn, chỉ có thay nhau ngủ gà ngủ gật được mươi mười lăm phút trong một ngày một đêm là cùng. Vào đây được chừng hai tuần lễ, anh em trong đơn vị đã có nhiều kinh nghiệm trong cách đánh vây lấn đặc biệt này, nắm được tình hình hoạt động dưới mặt đất và trên không của địch, nắm được các loại vũ khí mà địch đang dùng, biết được vị trí của từng hỏa điểm để tìm cách tiêu diệt hoặc phòng tránh, khắc phục những khó khăn như không có cây que để gác hầm chống đạn cối 106,7 ly, chống rốt két, cối 81, ĐK90 của địch ở tuyến đối diện trực tiếp bắn sang. Phần lớn là đi đào bới những đống đổ nát để tìm hầm sập ở trong đó, rồi mới kiếm những mảnh tôn nhỏ, đặt lên, lấy gạch vụn đổ lên, chống đạn. Nhiều hầm khi bới ra thấy chật ních những thi thể, anh em phải vội vàng lấp lại cho khỏi hôi thối rồi mới sang bên cạnh làm công sự giã chiến. Đặc biệt khi đào bới một đống gạch vụn bên trong khu trường học, thấy một hầm xây, bên trong có hai ông bà khoảng 80, 90 tuổi vẫn còn sống, khi anh em đào thấy cửa hầm, rút những thanh gỗ đã sập ra thì nghe có tiếng hừ hừ của cụ ông, bới được hầm ra thì thấy hai cụ đã mệt lả trong hầm như hai đống xương khô, chỉ có đôi mắt của cụ bà là còn mở được, cụ đưa mắt nhìn mọi người, mắt cụ ông thì cứ nhắm nghiền, anh em vội lấy nước đổ vào nắp bi đông rồi đổ vào miệng cho hai cụ, một vài phút sau cụ bà dơ hai bàn tay như hai thanh củi khô, vái vái, miệng lẩm bẩm “cảm ơn các ông”. Vào trong hầm mới thấy hầm to, rộng, xây kiên cố, nóc hầm gác an toàn bằng những cây gỗ to như những chiếc cột nhà, đè lên nó là cả một sàn nhà do bom đánh sập và đống gạch vụn, các loại pháo bắn vào chỉ là gãi ghẻ. Chúng tôi để cơm nước cho hai cụ, bảo hai cụ cứ ăn uống cho lại người, chúng tôi sẽ cho nữa, bây giờ không thể đưa hai cụ ra được, nếu ra khỏi hầm là sẽ bị chúng bắn chết ngay. Sau một hôm hai cụ tỉnh hẳn, tôi đến tìm hiểu địa hình khu vực, hai cụ cho biết: Qua bên kia là khu “hồi chánh quốc gia”, các ông ấy đông lắm, có ụ súng lớn lắm, còn đây là trường học, chỉ có 2 hầm như thế này trong nhà, để các ông giáo ẩn núp, cụ bà chỉ tay về phía bên phải hầm nói có một cái trong nhà phía bên kia sân trường. Anh em chúng tôi bảo nhau “thế thì chẳng còn vì bên đó đã bị những quả bom khoan khoét thành những cái ao chi chít”. Phải nằm bắn trên những đống gạch vụn của khu trường học, mà hầm hố chỉ là những chiếc hố cá nhân dã chiến khoét vội không có nắp, vào An Lộc mới chỉ có hai tuần lễ mà số thương vong rất cao. Trước tình hình bức bách ấy, chúng tôi đã hội ý trong ban chỉ huy tiểu đoàn: Mọi người đều nhất trí quyết tâm đánh vào khu chiêu hồi để lấy trận địa vây lấn, lấy hầm hào tránh bớt thương vong, trụ bám lâu dài. Quyết tâm đã được truyền đến tận phân đội một cách mau lẹ, tôi bò sang chiếc hầm của tổ máy 15 oát (w) để báo cáo quyết tâm của đơn vị, xin trên chi viện pháo 122 ly, cối 160, cối 120 có lắp ngòi nổ chậm (khoan) bắn theo yêu cầu vào khu chiêu hồi trước khi đơn vị đánh sang khu đó. Bức điện đánh đi chưa xong, thấy đánh rầm một cái ở ngay cửa hầm đất, đá, gạch, ngói tuôn vào đầy hầm, tôi thấy Soan gục đầu vào bên vai tôi, tôi lay lay bả vai của Soan gọi “Soan! Soan! Soan!” nhưng chẳng có tiếng trả lời, tôi đỡ lấy đầu Soan thì thấy cổ Soan mềm oặt, đầu Soan gục xuống, tôi bê Soan đặt Soan nằm thẳng ra, hai tay, quần áo tôi thấm đẫm đầy máu của Soan mà vẫn phải đưa tay lên vuốt mắt anh em vì chung quanh toàn là đất cát, khói thuốc đạn bám đen kịt. Tôi bảo tổ máy “đưa cho tôi miếng nilon, đặt Soan vào đó rồi bó lại, chờ anh em ở ngoài vào để mang ra. Tổ máy phải cắm giây ăng ten ra ụ đất phía sau, đánh tiếp bức điện, không được ngừng, ngừng phát sóng là nó sẽ đánh tiếp đấy”. Điện đánh đi chỉ một tiếng sau chúng tôi nhận được điện trả lời như sau: “Trung đoàn đã liên hệ với các cụm pháo, đánh theo yêu cầu của các đồng chí, các đồng chí phải hợp đồng chặt chẽ, đánh chiếm nhanh gọn”. Cũng ngay đêm hôm ấy, chúng tôi được nhận thêm 2 cơ số đạn cho mỗi loại súng, trung đoàn báo ngày mai sẽ cho 2 trung đội vận tải vào để mang thương binh liệt sĩ ra cho đơn vị. Đến đúng 22 giờ đêm, khi những chiếc dù pháo sáng của một chiếc C130 vừa thả xuống để bay đi, nhường chỗ cho pháo đài bay B52 vào đánh là lúc chúng tôi gọi pháo lớn cấp trên bắn cấp tập, pháo, cứ nổ ầm ầm trong khu chiêu hồi, pháo sáng dưới mặt đất bắn lên tới tấp, mặt đất rung chuyển dữ dội, được bao phủ bởi những cột khói đen và những tia chớp lóe lên liên tục do đạn nổ. Chúng tôi mở máy thấy địch la hét xin máy bay, pháo sáng, chi viện, máy bay C130 đã lảng ra xa, để B52 bay vào đánh theo tọa độ mất rồi, pháo của ta đã khoét hết hầm này sang hầm khác, chúng chạy nháo nhác để tìm chỗ trú ẩn, bỏ cả vị trí canh giữ, pháo bắn được 5 đến 7 phút tiểu đoàn lệnh cho đại đội 2 và đại đội 3 xuất kích, anh em bí mật bò qua những hố bom, hố pháo chỉ trong vòng 2 đến 3 phút rồi ném thủ pháo, lựu đạn vào những ụ súng mà ban ngày chúng dùng để bắn tỉa, theo hợp đồng anh Phàn quét một băng đạn lửa sang trận địa của địch, tất cả nhảy lên, lao vào trong khu chiêu hồi, chiếm công sự bằng súng AK, B40, B41 và thủ pháo lựu đạn. Lúc này cũng là lúc nghe thấy tiếng máy bay B52 ì ì như tiếng xay lúa, rồi một loạt bom nổ rình rình ở vòng ngoài, cách hàng cây số. Đơn vị chỉ đánh trong vòng 15 phút là lấy được khu chiêu hồi, chúng tôi yêu cầu pháo của trên bắn cầm canh vào chỉ huy sở sư 5 ngụy, vào khu vực trận địa địch sát khu chiêu hồi mà chúng tôi vừa chiếm được. Trong trận đánh này anh em chúng tôi bị thương và hy sinh 2 đồng chí, trong đó có đồng chí chính trị viên đại đội 2 Hoàng Công Ét. Ngay sau khi B52 đánh xong là 3 tốp máy bay phản lực, được chiếc OV10 đưa đến đánh phá hơn một tiếng mới chịu bay đi. Ngày hôm sau, trời còn mù sương bọn cánh cụp cánh xòe đã xuyên ngang, bổ dọc bầu trời An Lộc, bom khoan, bom cháy cứ nổ ình ịch. Mỗi khi chúng bị mất đất, mất trận địa là chúng dở hành động hủy diệt tôi đã gặp nhiều, nhất là khi đánh Mỹ. Sau một đợt đánh phá bằng không quân là một đợt chúng dùng bộ binh để phản kích, nhưng đều bị thất bại. Từ khi chiếm được khu chiêu hồi các hầm chúng xếp toàn bằng những bao cát, chống được róc két và cối 106,7 ly, anh em đỡ bị thương vong hơn. Đơn vị tiểu đoàn 4 đã trụ bám trong An Lộc được hơn một tháng thì có lệnh của trên bàn giao lại trận địa, nhanh chóng rút ra, hành quân cấp tốc xuống Kiến Phong, Kiến Tường (miền Tây Nam Bộ). Khi sang được đất Campuchia để xuống miền Tây, tim tôi như lên cơn đau thắt khi nhìn vào danh sách 43 liệt sĩ của đơn vị trong trận đánh vừa qua. Nỗi đau cứ dày vò tôi trong suốt cả một chặng đường hành quân từ miền Đông xuống tới miền Tây. Những hình ảnh của các anh trong những năm, tháng cùng chung chiến hào, cứ hiện về trong tôi làm sao tôi quên được. Anh Phạm Văn Cới quê ở Thái Thụy, Thái Bình anh nhập ngũ năm 1963 trước tôi một năm, tôi với anh cùng uống chung một dòng nước của con sông Trà Lý, lại cùng anh ở trong một trung đội ĐKZ của C12, D3, E174 ngay từ ngày đầu tôi mới nhập ngũ, anh rất hiền lành, cần cù chịu khó nên anh Thanh Tuyến, anh Lê Thanh Song (trung đội trưởng, trung đội phó, đặt cho anh cái tên “Chị Cới” rồi giao cho chị cả lo việc bếp núc, ăn uống của đơn vị. Suốt từ chiến trường Lào vào đến chiến trường Tây Nguyên, vào mùa mưa, mưa như trút nước, mưa hết ngày này sang ngày khác, hết tháng này sang tháng khác, đơn vị hành quân cấp tốc hết đêm rồi lại sang ngày, thế mà đến nơi nghỉ chân, chỉ sau 1 đến 2 giờ là anh nuôi đã đến tận từng hầm để thu bi đông để lấy nước rồi phát cơm nắm. Là người cùng quê, anh thường tâm sự với tôi về những phiên chợ Thượng, chợ Bái mà anh thường mang những cái rọ tôm tép, những cái dậm, cái thúng, mủng, dần, sàng mà anh đan lấy, mang lên bán, được cả vùng ưa chuộng làm anh rất vui, rồi anh lại thở dài, miệng lẩm bẩm (không biết mình đi rồi, có ai thay thế mình không nhỉ? Khi về chắc hẳn mình sẽ lại tiếp tục cái nghề ấy đấy!). Giờ đây thì thôi rồi, chợ phiên Bái Thượng sẽ mãi mãi vắng bóng anh vắng bóng những mặt hàng mà anh làm ra. Một quả bom đã làm cho con mất cha, vợ mất chồng, tôi mất đi người đồng đội, người đồng hương vô cùng thân thiết. Cuộc chiến ngày càng trở nên khốc liệt, đồng đội của chúng tôi ra đi ngày càng tăng nhiều. Mỗi khi nghe tiếng nước suối chảy róc rách, tiếng mõ trâu lóc cóc rủ nhau về bản là tôi lại nhớ những người đồng đội, đã sinh ra và lớn lên trên miền rừng núi mà nay không còn nũa như anh: Phạm Thanh Tuyến, Hoàng Công Ét, Vì Văn Sinh, Nông Hồng Thắng, Bùi Văn Dũng, Lò Văn Xuân, Nông Văn Đầm, Ma Trọng Đạt. Chúng tôi không còn được quần tụ với các anh được nữa. Mỗi khi nhìn thấy hoa phượng nở, hoa gạo đỏ là tôi lại nhớ đến mùa hè, mùa của những ước mơ và hy vọng. Tôi lại nhớ đến những người đồng đội nhỏ tuổi như Định, Nghi, Soan, Lý, Huyền, Cầu, Sinh, Thành… Tất cả còn đang ngồi trên ghế nhà trường hoặc đang chuẩn bị bước vào giảng đường của các trường đại học, để ngày mai trở thành nhân tài của đất nước. Nhưng vì sự nghiệp giải phóng miền Nam thống nhất đất nước các anh đã hy sinh anh dũng, chúng tôi xin được thắp nén nhang cầu nguyện cho linh hồn các anh được siêu thoát để hòa quyện với hồn thiêng sông núi mà thôi, xin vĩnh biệt các anh. Hà Nội, tháng 9 năm 2009. |
Tình đồng chí, tình quân dân
Huỳnh Thị Liêng Thành viên sáng lập BLL Hội bạn chiến đấu CCB Sư đoàn 5 phía Bắc Nhân kỷ niệm 45 năm ngày thành lập Sư đoàn 5 miền Đông Nam Bộ - đơn vị 2 lần được Nhà nước phong tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang…”. Tôi xin kể lại câu chuyện mà 34 năm đã trôi qua, nhưng dư âm vẫn còn ghi mãi tình đồng chí tình quân dân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước trên mảnh đất thị trấn Thủ Thừa thuộc huyện Thủ Thừa tỉnh Tân An (Long An) quê hương “trung dũng kiên cường toàn dân đánh giặc”. Câu chuyện xảy ra giữa 3 người lính tiểu đoàn 9 Trung đoàn 3 Sư đoàn 5 với một cán bộ nằm vùng tại ấp chiến lược Rạch Đào thị trấn Thủ Thừa là trọng điểm bình định của Mỹ Ngụy, mà ta và địch hàng ngày, hàng giờ luôn cọ xát với nhau. Hơn thế nữa để trấn áp lòng dân chia cắt với cách mạng bọn Ngụy quân, Ngụy quyền Sài Gòn đề ra khẩu hiệu “Ba sạch” bắt được Việt cộng tại nhà thì chúng giết sạch, phá sạch, đốt sạch nhằm để hăm dọa, rùn ép người dân không theo cách mạng. Mặc dù bọn đế quốc và tay sai dùng đủ mọi thủ đoạn để đàn áp nhân dân và cách mạng, người dân Thủ Thừa càng dâng cao lòng căm thù Mỹ Ngụy sâu sắc, biến lòng căm thù thành hành động, càng nỗ lực đóng góp nguồn nhân lực và tài chính cho cách mạng, che giấu và bảo vệ cán bộ, chiến sĩ về công tác được an toàn, không để bị địch bắt, hoặc hy sinh khi gặp phải trong hoàn cảnh chiến đấu khốc liệt. Trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử giải phóng hoàn toàn miền Nam nói chung, thị trấn Thủ Thừa nói riêng. Sư đoàn 5 được lệnh từ huyện Mộc Hóa về giải phóng huyện Thủ Thừa gồm trung đoàn 1, 2, 3. Tại thị trấn Thủ Thừa, rạng sáng ngày 9 tháng 4 năm 1975, tiểu đoàn 9 Trung đoàn 3 Sư đoàn 5 do đồng chí Thái tiểu đoàn trưởng, đồng chí Sơn trung đội trưởng trinh sát, đồng chí Khánh chính trị viên đại đội cùng 6 chiến sĩ vượt sông Thủ Thừa vào ấp chiến lược Rạch Đào, nơi đây là nơi Mỹ Ngụy gom dân từ các xã Mỹ Lạc, Mỹ An Phú, Long Ngãi Thuận… nên nhà đông đúc, phải sống trong vòng kìm kẹp của địch và cũng là đường đi vào xóm cầu Tu Cửu, các anh đào công sự sẵn sàng chiến đấu… Chốt thứ hai từ ấp chiến lược Nhà Dài qua cầu treo cũ tại Chùa Bà Thiên Hậu khoảng 1 tiểu đội. Tại đây bọn tề, Ngụy đi ăn sáng, uống cà phê, lúc đầu bọn chúng tưởng lính đi hành quân về nhưng khi chúng nhìn kỹ lại thấy bộ đội ta đội nón cối, mang dép râu, vác súng AK và B40 chúng tuôn chạy về chi khu quận báo tin là Việt cộng tấn công. Bọn chúng cố thủ tại chi khu Thủ Thừa và kêu chi viện, phi, pháo yểm trợ… số còn lại chưa qua sông phải chịu một ngày phi pháo nằm dưới ruộng lúa và nhân dân… Tại đây anh em bộ đội vào nhà dân, đục tường thông từ nhà này sang nhà khác, cố thủ và đánh trả. Chốt này anh em chiến đấu anh dũng, bọn chúng không vào được, vì anh em ở trong nhà bắn ra sau cùng chúng dùng bom napan thiêu hủy nhà dân gần một tiểu đội hy sinh. Còn lại anh Thái, Sơn, Khánh đi dọc theo mương ấp chiến lược Rạch Đào vào nhà dân xóm cầu Ông Cầu, đứng điều nghiên tại cửa ngõ nhà anh Sáu Sử. Lúc bấy giờ tại xóm Cầu Ông Cửu trẻ em và người già sơ tán ra đồng trống để tránh bom, nhà chỉ còn người trẻ ở lại. Anh Sáu Sử từ trong nhà nhìn ra ngõ thấy 3 anh đứng núp tại hai cây cột bê tông cửa ngõ, nên anh Sáu bò ra ngõ hỏi, các anh ở đây mà có chốt tiền tiêu tại Cầu Ông Cửu không? Các anh trả lời không có. Từ chỗ 3 anh đứng cố thủ chỉ cách bọn lính khoảng 2000 mét đường chim bay, vì buổi sáng bọn địch thấy ta qua sông, chúng biết là quân chủ lực nên không dám xông vào xóm Cầu Ông Cửu mà chỉ đi từ từ rồi rút về chi khu cố thủ. Đứng trước tình hình trên anh Sáu Sử nhận định là 3 anh em bộ đội lạc đường, nên anh Sáu Sử dẫn 3 anh lội dọc theo rạch ông Cửu đến nhà tôi cách khoảng 1000 mét. Đến nơi tôi cùng gia đình đang đào công sự ngoài vườn vì xác định chúng sẽ hủy diệt nhà bằng bom napal khi chúng bị ta tấn công. Anh Sáu Sử đến trước gặp tôi báo là 3 anh đi lạc, tôi khoát tay cho anh Sáu Sử đi về. Tôi gặp 3 anh Thái, Sơn, Khánh tôi nói: “Gia đình tôi là dân tại chỗ, các anh an tâm, chúng tôi có trách nhiệm bảo vệ an toàn và tìm cách đưa các anh về đơn vị. Anh em du kích, lực lượng địa phương là nơi chạm mắt với kẻ thù hàng ngày, nên đã quen và thích nghi với địa bàn, tác phong nhanh nhẹn, chụp bắt kịp thời quy luật ruồng bố của địch, nên có kế hoạch phòng tránh địch rất dễ dàng. Ba đồng chí Thái, Sơn, Khánh bị lọt vào vòng vây địch, sau khi được gia đình tôi bảo vệ an toàn tại nhà trong 5 ngày. Trong 5 ngày tôi cùng gia đình bố trí: ban ngày đưa các anh ra đám lá sau vườn trốn, ban đêm vào nhà ngủ, nếu nghe động như lính xét nhà 3 anh leo nằm trên máng xối nhà, khi yên mới kêu xuống. Ngày đầu tiên ba giờ sáng, tôi thức dậy nấu cơm, cho các anh ăn, 5 giờ sáng ra vườn ngồi ở bụi ô rô, máy dầm, còn lá dừa nước chúng phát hoang để kiểm tra địa bàn, các anh phải chịu cảnh nước lớn, nước ròng, đầu đội trời, chân ngập nước. Ngày đầu tiên các anh không quen, mới 16 giờ các anh bỏ vị trí, lên vườn ngồi dụm 3 anh lại nhân dân tự vệ tập trung ở nhà đối diện để chuẩn bị đi tuần về đêm. Từ trong nhà nhìn ra thấy tình hình bất lợi cho các anh nếu số nhân dân tự vệ về trình báo lên trên đồn, đứng trước tình thế như vậy, tôi chạy ra vườn vo quần lội qua bến nhà bên cạnh chỗ anh em nhân dân tự vệ ngồi. Và nói với anh em tự vệ rằng, các anh từ miền Bắc vào để cùng giải phóng miền Nam, chẳng may trong trận chiến anh em đi lạc đường, chúng ta là dân nơi đây có trách nhiệm bảo vệ, nếu các anh em đi báo lính vào bắt hoặc bắn các anh chết, gia đình chị chết thì gia đình anh em cũng chết chung…. Anh em nhân dân tự vệ nghe lời tôi phân tích thấy đúng trả lời: Chúng cháu bị bắt buộc phải đi thôi, cô an tâm chúng cháu hứa là không làm gì các anh bộ đội đâu… Câu chuyện các anh gặp nhân dân tự vệ ấp đã giải quyết yên. Sau khi các anh vào nhà tắm rửa ăn cơm chiều xong, tôi mời 3 anh lại tôi nói: “Các anh là bộ đội, tôi là dân tại chỗ cố tìm cách bảo vệ các anh an toàn, cho nên tôi bố trí các anh ở đâu thì ở đấy, mấy giờ tôi ra hiệu các anh mới được rời khỏi vị trí vào nhà, sự việc xảy ra lúc chiều nếu tôi không lanh trí qua trấn an anh em nhân dân tự vệ, thì tánh mạng các anh làm sao còn tồn tại trước khẩu hiệu 3 sạch của bọn Ngụy quân, Ngụy quyền Sài Gòn… Nói xong 3 anh trả lời: Vì ngày đầu tiên chúng tôi chưa quen nắng và lạnh chịu cả ngày, vả lại thấy nhà chị là nhà ngói nhà tường quá lớn. Vì trước đây cũng có một số anh em lạc đường vào nhà dân, họ cũng cho ăn cơm, sau đó kêu lính đến bắt, nên anh em tôi có cảnh giác, chị nói như vậy 3 anh em tôi rút kinh nghiệm cho các ngày còn lại, qua ngày thứ 2 các anh thực hiện đúng quy định… Từ ngày thứ nhất đến ngày thứ năm tôi cùng gia đình đã chăm lo ăn, ở cho 3 anh em an toàn. Đến ngày thứ sáu tức ngày 14 tháng 4 năm 1975 chị Sáu Sữa mới đến nhà tôi, tôi báo cho chị rõ có 3 anh bộ đội lạc đường, anh Sáu Sử dẫn đến nhà tôi, tôi cùng gia đình bố trí 3 anh ăn ở được an toàn cho đến hôm nay chờ chị đến để bố trí đưa các anh về đơn vị. Buổi tối ngày 14 tháng 4 năm 1975 tôi và gia đình cùng với chị Sáu Sữa bàn tính làm thế nào để ba anh về đơn vị an toàn. Tôi mới đề xuất cách cải trang như người dân bình thường để đưa ra vùng giải phóng. Anh Thái người cao lớn, nước da đen, tôi lấy áo bà ba trắng, quần đen, đội nón cói trắng giả làm ông nông dân đi đám giỗ, còn anh Sơn nước da trắng có dáng thư sinh tôi lấy quần tây xanh, áo sơ mi trắng ôm cặp táp giả làm cậu học sinh cấp 2 đi học về, đặc biệt ở anh Khánh dân Nghệ An nên giọng nói khó nghe, phải giả làm con người chủ ghe bị bệnh câm. Thống nhất phương án cải trang trên, đúng 5 giờ sáng ngày 15 tháng 4 năm 1975 là giờ mà bọn lính đi tuần đường đã về đồn cả, tôi bơi xuồng đưa chị Sáu Sữa cùng anh Thái qua Rạch Ông Cửu phía sau nhà tôi chị Sáu Sữa cùng anh Thái đi bộ khoảng 2000 mét trên cánh đồng, đến ấp chiến lược bờ Kinh có xuồng máy đón trên sông Thủ Thừa đi thẳng về rừng tràm Tân Đông về đơn vị. Còn anh Sơn và anh Khánh độ 7 giờ sáng xuống ghe của dì Hai Ảnh và dượng Tám Phối về vườn cũ ở Văn Kinh, Mỹ Phước sông Vàm Cỏ Tây, thuộc xã Mỹ Lạc Thạnh huyện Thủ Thừa, 2 anh Sơn, Khánh cũng về đơn vị an toàn cùng ngày trên. Do Trung đoàn 3 Sư đoàn 5 khi vào Thủ Thừa và các huyện lân cận như Bến Lức, Tân Trụ…, không có tăng, pháo chi viện chưa kịp thời nên ngày 9 tháng 4 năm 1974 có tiêu hao lực lượng… Ngày 30 tháng 4 năm 1975 trung đoàn 1, 2, 3 Sư đoàn 5 cùng lực lượng tăng, pháo mở đường từ rừng tràm Tân Đông kéo thẳng xuống thị xã Tân An vào huyện Thủ Thừa với nhiệm vụ: Trung đoàn 3 giải phóng Thủ Thừa, trung đoàn 1, 2 chiếm thị xã Tân An, Bến Lức nhằm chặn đường chi viện từ Sài Gòn về miền Tây và ngược lại. Đứng trước sự tấn công như vũ bão và thần tốc của bộ đội Sư đoàn 5, bọn tề Ngụy Sài Gòn tan rã, quăng súng, cởi quân phục, chỉ mặc quần đùi ở trần chạy vào nhà dân để trốn. Lính Ngụy ở các đồn bót như Văn Thư, An Hòa, Rạch Đào, Nhà Bằng, Bờ Đỏ, Giếng Nước đều bỏ chạy… Đúng 12 giờ trưa ngày 30 tháng 4 năm 1975 Trung đoàn 3 cùng huyện ủy, huyện đội và chi bộ một thị trấn Thủ Thừa vào tiếp quản chi khu Thủ Thừa, chi cảnh sát, chi thông tin Chiêu Hồi… Hai lá cờ mà huyện ủy Thủ Thừa chỉ đạo cho chi bộ một thị trấn Thủ Thừa chuẩn bị do tôi cùng anh Sáu Sử may hơn một năm, nay được treo trên nóc chi khu Ngụy Thủ Thừa nay là Ban Quân Quản huyện Thủ Thừa và trên nóc đồn Giếng Nước phất phới tung bay, đánh dấu ngày tàn của đế quốc Mỹ và tay sai Ngụy quân Ngụy quyền Sài Gòn, đem lại ước mơ cho cán bộ chiến sĩ và nhân dân miền Nam nói chung thị trấn Thủ Thừa nói riêng. Khoảng 13 giờ cùng ngày cả 3 anh Thái, Sơn, Khánh đến nhà ông bà Bảy Dùng tại 194 Khu C ấp Rạch Đào thị trấn Thủ Thừa cảm ơn gia đình đã đùm bọc cưu mang trong những ngày cam go ác liệt. Ngày hôm sau vào lúc 9 giờ ngày 1 tháng 5 năm 1975 một cuộc hội ngộ bất ngờ giữa cô gái giả dạng thường dân tại chỗ, lại là cô cán bộ nằm vùng ngồi trên loa kêu gọi anh em binh sĩ, Ngụy quân Ngụy quyền ra trình diện với anh tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 9 Nguyễn Đình Thái đang giữ chốt tại ngã ba Đình Ảnh nằm trên quốc lộ 4 nay là quốc lộ 1 ngã rẽ vào huyện Thủ Thừa đang làm nhiệm vụ chặn xe từ Sài Gòn về miền Tây để kiểm tra.. Xe dừng lại tôi bước xuống xe hỏi các anh bộ đội, ai chịu trách nhiệm chốt này, một chiến sĩ trả lời thủ trưởng Thái. Tôi nói cho tôi xin gặp đồng chí chỉ huy. Độ 10 phút sau thủ trưởng Thái đến, tôi bắt tay anh, tiểu đoàn trưởng Thái quá ngỡ ngàng khi gặp tôi, anh nhìn tôi chăm chăm và nói trưa qua 3 anh em có vào nhà cảm ơn gia đình nhưng không gặp… Tôi nói tiếp anh tiểu đoàn trưởng ơi – có nhìn ra ai không? Có phải cô gái hôm nào có giọng nói lạnh lùng với câu: “Các anh là bộ đội, tôi là dân địa phương bố trí ở đâu các anh phải ở đó, khi có tín hiệu mới được rời vị trí vào nhà”. Chắc các anh giận lắm phải không? Nghe tôi nói vậy thủ trưởng Thái với nụ cười tươi như để thay câu trả lời rằng, nói có hơi nặng nhưng không bao giờ giận, mà lại còn ghi mãi hình ảnh đêm ngày 9 tháng 4 năm 1975 xem như một kỷ niệm trong đời. Cuộc hội ngộ nào cũng phải chia tay, tôi chào các anh em bộ đội và anh Thái rồi nói anh cho anh em mở đường cho xe của đội tuyên truyền chúng tôi tiếp tục làm nhiệm vụ. Thế rồi thời quân quản công việc ai nấy làm và cuối năm 1976 đơn vị sư đoàn 5 về đóng ở Tây Ninh, rồi chiến tranh biên giới Tây Nam xảy ra. Ba anh Thái, Sơn, Khánh tiếp tục lên đường làm nhiệm vụ quốc tế và ngày 5 tháng 2 năm 1979 anh Thái, lúc đó là tham mưu trưởng trung đoàn đã anh dũng hy sinh trên đất bạn Campuchia, lần lượt anh Sơn, anh Khánh cũng hy sinh… Ba anh hy sinh khi tuổi đời còn rất trẻ, khi đã trải qua cuộc chiến tranh đánh đuổi đế quốc Mỹ, cam go ác liệt đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, nhưng các anh chưa tận hưởng ngày hòa bình trọn vẹn với gia đình, thì phải một lần nữa tạm chia tay cha, mẹ, anh em và đồng chí mình đi làm nhiệm vụ quốc tế ở đất bạn Campuchia một chuyến đi xa và mãi mãi không về… Mặc dù câu chuyện đã xảy ra 34 năm nhưng tôi coi đó là một kỷ niệm sâu sắc trong tình quân dân tình đồng chí, nó luôn nhắc nhở tôi dù gặp hoàn cảnh nào trong nhiệm vụ giữ nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội, cũng phải cố gắng vươn lên để vượt qua không bao giờ chùn bước để xứng đáng với những đồng chí mình đã ngã xuống vì độc lập tự do của dân tộc Việt Nam. Năm 1996 tôi được Quận ủy và UBND quận Ba thành phố Hồ Chí Minh, bố trí Giám đốc Công ty thương mại vật tư. Đầu năm 1999 tôi có dịp ra Hà Nội làm việc với lãnh đạo và cán bộ công nhân viên khách sạn Bàn Cờ tại 87 Nguyễn Thái Học quận Ba Đình, Hà Nội. Tôi có một sự suy nghĩ làm thế nào tổ chức họp mặt với cán bộ, chiến sĩ sư đoàn 5 tại miền Bắc, những người đã từng đổ xương – máu cho mảnh đất miền Nam nói chung thị trấn Thủ Thừa nói riêng – xuất phát từ tình thương yêu kính trọng của đồng bào, cán bộ, chiến sĩ miền Nam với các anh bộ đội miền Bắc và cũng thực hiện câu “Uống nước nhớ nguồn và chính sách đền ơn đáp nghĩa của Đảng và Nhà nước ta”. Những ngày đầu tháng 2 năm 1999, tôi cùng 2 anh em tại khách sạn Bàn Cờ đi Nam Định tìm trung úy Trần Quang Trọng mà trong những ngày quân quản đã kết nghĩa anh chị em hiện về phục viên tại huyện Hải Hậu. Từ 6 giờ sáng đến 13 giờ mới tìm đến xã mà Trung úy Quang Trọng ở, tôi được anh em hướng dẫn tôi tìm đến nhà, vừa bước vào nhà tôi nhận ngay được Trọng còn Trọng không nhận ra tôi, nhưng khi tôi cười Trọng mới nhận ra, hai chị em gặp nhau mừng ra nước mắt, rồi hỏi thăm nhau qua 21 năm xa cách kể cho nhau nghe những đổi thay của thị trấn Thủ Thừa những đổi thay của anh trung úy từ khi về đời thường… Trong bữa cơm chung vui với gia đình anh, nhân ngày gặp lại sau bao năm xa cách, tôi nêu ý định muốn tổ chức cuộc họp mặt tại khách sạn Bàn Cờ, Trọng nghe đồng ý ngay vì là đúng nguyện vọng của một số anh em sư đoàn 5 ở phía Bắc. Bữa cơm xong chúng tôi chia tay ra về và mời Trọng cùng chúng tôi ra Hà Nội để bàn bạc tiếp. Sáng hôm sau, Trọng dẫn tôi đến nhà Ngọc lúc đó là cán bộ của Bộ Thương binh xã hội, chị em tay bắt mặt mừng, tôi nói lên ý định tổ chức họp mặt tại khách sạn Bàn Cờ vào ngày 30 tháng 4 nhằm kỷ niệm 21 năm ngày giải phóng miền Nam trong đó có huyện Thủ Thừa. Nghe xong Ngọc tán thành ngay và anh chị em phân công: Trọng chịu trách nhiệm mời anh em ở Nam Định và các tỉnh lân cận, Ngọc mời anh em tại Hà Nội. Qua gần 2 tháng chuẩn bị 3 anh chị em chúng tôi tổ chức được cuộc họp mặt tại khách sạn Bàn Cờ. Tôi cùng Trọng đến Thanh Hóa tìm được anh Ba Đằng – nguyên là chính ủy Trung đoàn 3 Sư đoàn 5, ngày 29 rước anh ra Hà Nội. Người thực hiện cuộc họp mặt trên gồm có tôi, anh Quang Trọng, anh Ngọc và được sự hỗ trợ của một số anh chị em tại khách sạn Bàn Cờ. Họp mặt đầu tiên tại khách sạn Bàn Cờ là ngày 30 tháng 4 năm 1999 với sự tham dự của anh Ba Đằng nguyên chính ủy Trung đoàn 3 Sư đoàn 5 lúc giải phóng Thủ Thừa, anh Nguyễn Văn Thùy – chỉ huy trưởng tỉnh đội Hưng Yên, đại tá Lương Quý Mão ở tỉnh Thái Bình, đại tá Chuẩn và đại tá Tâm Bộ Tổng tham mưu Quân đội nhân dân Việt Nam, đại tá Minh – Phòng Tài vụ Quân khu 3, anh Chọn Phó bí thư thành phố Hải Dương, anh Thoan – Sở Thương binh xã hội tỉnh Hải Dương và anh Đạt Hà Nội v.v…. và nhiều anh em khác khoảng gần 30 người, đặc biệt có nhà báo cựu chiến binh Việt Nam tại Hà Nội là anh Bùi Đình Nguyên. Qua 21 năm anh em được gặp lại sự vui mừng không sao kể xiết, tay trong tay, tay bắt mặt mừng. Từ đó mới biết được hoàn cảnh từng người để có sự hỗ trợ trong cuộc sống và trong công tác… Năm 2000 tiếp tục tổ chức cử anh Nguyễn Văn Thùy làm ban liên lạc lâm thời, trong cuộc họp kỳ 2 anh em đến đông gấp 3 và bầu ra một ban liên lạc chính thức do Thượng tá Nguyễn Thanh Truyền công tác tại Vụ vũ khí – Tổng cục công nghiệp quốc phòng đảm nhiệm chức trưởng ban. Sau cuộc họp mặt tôi cùng Truyền và một số anh trong ban liên lạc về xã Ninh Vân, huyện Hoa Lư, tỉnh Ninh Bình quê hương của anh Nguyễn Đình Thái. Sáng sớm của một ngày tháng 5 năm 2000 chúng tôi đi Ninh Bình đến cầu Yên rẽ vào tìm Ủy ban nhân dân xã Ninh Vân để về gia đình anh Thái. Tại đây, chúng tôi được anh Nguyễn Đình Đoàn là anh em với anh Thái, hướng dẫn đến nhà anh Thái. Đến nơi được biết cha mẹ anh Thái đã qua đời và cả vợ con anh cũng ra đi mãi mãi chỉ còn người anh cả là Nguyễn Đình Mạnh ở lại căn nhà do bố mẹ để lại, anh Mạnh gọi 2 người em gái về cùng các cháu. Anh Truyền báo với gia đình có chị Tám Liêng ở Thủ Thừa người đã cứu anh Thái khi anh đưa quân vào chuẩn bị chiến trường và bị lạc đường. Chị Tám Liêng cùng anh em tôi đến thăm gia đình. Anh Mạnh mời anh em ở lại chơi và ăn với gia đình một bữa cơm xem như em Thái về thăm gia đình. Thấy sự nhiệt tình của gia đình chúng tôi ở lại dùng bữa cơm, khi ăn cơm xong ngồi uống nước anh Mạnh nói tôi có chuyện này không biết có nên nói với các anh chị không? Đây là lời của cha mẹ tôi lúc qua đời có dặn với tôi, với giá nào cũng mang hài cốt em nó về. Lúc sống không được gần cha mẹ thì chết cũng phải về gần, vì lúc cha mẹ còn sống không có điều kiện đem về. Nghe anh Mạnh nói cả đoàn đều rơi nước mắt, rồi anh đưa tên họ, quê quán, năm sinh, ngày hy sinh nằm ở nghĩa trang huyện Tân Biên tỉnh Tây Ninh, ngôi mộ nằm ở hàng thứ mấy do anh em công tác chung với Thái mang về báo cho gia đình. Tôi trả lời cùng anh Mạnh tôi cố gắng liên hệ để xác định đúng nơi anh Thái nằm xuống, vì tôi là dân chính không rõ quy định của bộ đội, có kết quả tôi báo ngay cho Ban liên lạc Sư đoàn 5 tại Hà Nội để thông báo cho gia đình. Khi tôi đi công tác Hà Nội về đến thành phố Hồ Chí Minh ngày hôm sau tôi đến cư xá Lam Sơn quận Gò Vấp nơi đại tá Huỳnh Văn Xuyên (anh Ba Xuyên) là chính ủy sư đoàn 5 trong chiến tranh biên giới Tây Nam. Tôi báo cáo với anh Ba Xuyên nguyện vọng của gia đình anh Thái là muốn đem hài cốt về Ninh Bình. Tôi nói với anh Ba Xuyên từ đây đến Tây Ninh em biết còn đi nữa em không rành đường. Anh Thái là lính của anh lúc hy sinh anh Thái là tham mưu trưởng Trung đoàn. Nghe xong anh Ba nhận lời ngay và hẹn sáng hôm sau 7 giờ sáng tôi ghé rước anh Ba đi Tây Ninh đến nghĩa trang huyện Tân Biên tìm kiếm. Hai anh em đến nghĩa trang Trại Bì nhưng vừa cải táng về nghĩa trang đồi 82 gồm 3 đơn vị: Cục dân y, Bộ Công an và mặt trận 479. Tôi cùng anh Ba Xuyên đi vào nghĩa trang tìm nhưng không biết tìm ở đâu vì rộng quá, nhưng người chăm sóc nghĩa trang chỉ đến ban quản lý nghĩa trang để được hướng dẫn. Đến nơi chúng tôi cung cấp tên tuổi năm sinh, năm hy sinh, quê quán… Sau 10 phút tra cứu trong sổ quản lý, ban quản lý nghĩa trang tìm thấy vị trí đặt hài cốt anh Thái, hai anh em mừng quá. Hỏi thủ tục chuyển hài cốt về quê Ninh Bình, các anh giải thích, theo đúng nguyên tắc hài cốt đem về nghĩa trang đã quản lý thì không được bốc đi, nhưng do tình cảm gia đình anh em đồng ý cho lấy hài cốt anh đem về quê nhưng tên tuổi và mộ vẫn để nguyên. Gia đình muốn thực hiện phải làm đơn và được Phòng thương binh xã hội đồng ý anh em sẽ giải quyết. Tôi và anh Ba Xuyên mừng quá chào các anh quản lý nghĩa trang, chúng tôi về và xin số điện thoại để liên lạc. Kết quả trên tôi về điện báo cho Ban Liên lạc Sư đoàn 5 để báo tin cho gia đình anh Thái biết để đáp ứng đủ các yêu cầu quy định của Ban quản lý nghĩa trang. Qua 4 tháng chuẩn bị mọi thủ tục tháng 9 năm 2000 gia đình anh Thái cử ông bác, anh cả và đứa cháu ruột vào Tây Ninh. Ban Liên lạc Sư đoàn 5 phía Bác báo ngày giờ tàu đến tôi ra ga Hòa Hưng đón đưa về nhà khách T67 của quân khu 7 nghỉ. Tôi báo với anh Ba Xuyên anh liên lạc vớ Phòng chính sách Quân khu 7 và hẹn ngày hôm sau đi Tân Biên Tây Ninh lấy hài cốt. Đúng 7 giờ sáng Phòng chính sách Quân khu 7 cử 1 trung tá và 2 chiến sĩ cho 1 xe Jeep và tôi cùng anh Ba Xuyên đi xe đơn vị đi thẳng lên nghĩa trang đồi 82, gia đình cùng Ban quản lý nghĩa trang làm thủ tục bốc hài cốt anh Thái rồi về thẳng Phòng chính sách Quân khu 7 để làm thủ tục như cấp tiền tàu xe cho gia đình từ Ninh Bình vào thành phố Hồ Chí Minh và mời gia đình dùng bữa cơm chiều. Sau đó cho xe đưa hài cốt ra ga Hòa Hưng về Ninh Bình. Tại ga Hòa Hưng hài cốt lên xe lộ trình đến mấy giờ ngày nào về tới ga Ninh Bình thì có Ban liên lạc sư đoàn 5, huyện Hoa Lư, xa Ninh Vân ra đón tiếp đúng như đón một người con của gia đình và một đồng chí trở về quê hương đúng theo nghi lễ. Và đây cũng là nghĩa cử của những người còn sống đối với những người đồng chí đã ngã xuống cho quê hương và cũng an ủi được phần nào của những bậc sinh thành trước khi lâm chung vẫn còn trối trăn căn dặn… |
Tìm người thân từ tiền tuyến trở về
Đại tá Mai Đức Tảo Sau chiến thắng 30 tháng 4 năm 1975, ở các tỉnh miền Bắc có tàu hỏa chạy qua, nhất là tại sân ga Hàng Cỏ - Hà Nội, người từ các tỉnh đổ về rất đông, để kiếm tìm người thân từ chiến trường miền Nam trở về. Trên tay các bà, các mẹ, các bác đều mang theo một đóa hoa tươi. Họ theo dõi rất sát các chuyến tàu hỏa từ Vinh ra Hà Nội. Họ chắc trong chuyến đó sẽ có người thân của mình. Họ kiên trì chờ đợi, có người may mắn hơn, chỉ trong một ngày đã nhận được: Chồng, cha, con mà thân thể vẫn còn nguyên vẹn hoặc có người thì chỉ mất đi một cái chân, một cái tay hay có người thì chỉ bị một phần cơ thể; song dẫu sao niềm vui sum họp của họ cũng đã được toại nguyện, nhưng bên cạnh đó vẫn còn rất nhiều người đang ở trong tình trạng phấp phỏng chờ mong. Có người đợi mãi không gặp được người thân, họ đã đem bó hoa đặt dưới chân cột điện trên sân ga và trở về trong niềm vô vọng. Lúc này trời đã tối, nhà ga đã lên đèn mà người thì vẫn còn rất đông, họ chẳng biết đi đâu về đâu, họ đành ngồi tựa lưng vào các dãy ghế dành cho khách của nhà ga, để đợi các chuyến tàu tiếp theo. Rồi vào lúc nửa đêm hôm đó, nhà ga thông báo: Tại đường tàu số 3 chuẩn bị đón chuyến tàu từ Vinh vào sân ga… một cái tin thật sốt dẻo, khiến mọi người đổ xô về đoạn đường tàu số 3, trong chuyến tàu này có rất nhiều bộ đội, tôi và đồng chí Phạm Văn Vân ngồi cùng một dãy ghế, chúng tôi trở nên thân quen nhau từ lúc mua vé ở nhà ga xe lửa Sài Gòn đi Hà Nội. Tôi là bộ đội ở sđ 308, quê ở Sơn Tây, còn đồng chí Vân là cán bộ tiểu đoàn 4, Trung đoàn 174, sư đoàn 5, miền Đông Nam Bộ. Anh bị thương nay được trở ra Bắc, quê anh ở Hà Nội, anh đã báo cho người nhà ra sân ga đón. Con tàu vừa dừng bánh, chúng tôi chuẩn bị đeo, xách hành lý để xuống tàu, khi cả hai chúng tôi vừa thò đầu ra khỏi toa xe, bất ngờ tôi trông thấy một thiếu phụ, tay cầm một bó hoa, chạy lại ôm chặt lấy anh Vân và kêu: Mai Tiến Thụ anh yêu của em! Có phải anh Thụ của em đây không? Chị vừa hỏi vừa kéo tay cháu bé đến trước mặt anh Vân và bảo: Đây là đứa con trai của anh, nó tên là Thư, anh đã để lại từ Mộc Châu cho em…! Người thiếu phụ này cứ nói liến thoáng với anh Vân như vậy và khẳng định: Anh Vân là Mai Tiến Thụ - là chồng yêu của chị. Hành động đó của người thiếu phụ khiến anh Vân cứ đứng ngẩn người ra và không biết phải ăn nói như thế nào cho phải…! Một lúc sau, người thiếu phụ này hình như đã hồi tâm lại và nói với anh Vân: - Vậy là đã 8 năm rồi còn gì, kể từ đầu năm 1967 cho đến nay là tháng 5 năm 1975, đơn vị của anh Thụ và anh Vân từ đất Lào về Mộc Châu – Tây Bắc để tổng kết rút kinh nghiệm. Sau đó đơn vị cho đi phép, rồi lại tiếp tục đi B. Lúc đó, tôi làm công nhân ở hạt Hai – đường số 6 – đoạn Mộc Châu, mỗi lần anh Thụ dẫn bộ đội đi tập, anh hay ghé vào chỗ chúng tôi uống nước. Tôi quen anh Thụ từ đó, anh rất hiền lành và dễ thương – anh bảo: Anh yêu tôi, anh nói thật chứ chẳng văn hoa gì mà sao tôi cũng cảm thấy mến anh ấy và yêu anh đến vậy. Trước khi về phép anh bảo tôi, quê anh ở huyện Vũ Thư, tỉnh Thái Bình. Cũng cùng một huyện với tôi, anh còn bảo: Anh có bố mẹ già yếu, để bố mẹ yên tâm, em lên cơ quan xin phép để về làm đám cưới một thể. Vậy là tôi nghe anh, đám cưới thời chiến được tổ chức đơn giản, cưới xong chúng tôi lại lên trả phép đúng hạn. Đồng chí Vân ngắt lời thiếu phụ hỏi: Xin lỗi chị có phải là chị Thâu công nhân hạt Hai đường số 6 đoạn Mộc Châu không ạ? Chị Thâu trả lời: Vâng, đúng là tôi. Còn anh là Vân, cán bộ Tiểu đoàn 4 với anh Thụ. Nếu tôi không lầm thì anh và anh Thụ đều cao to như nhau và cả hai đều có bộ râu quai nón và mái tóc của anh Thụ cũng xoăn như mái tóc của anh, chính vì những nét giống nhau cơ bản này mà ảo giác của tôi cho anh là anh Thụ; đã thế khi trả phép lên đơn vị, tôi và anh Thụ chỉ ở với nhau được 7 ngày, nếu kể cả từ ngày cưới, chúng tôi chỉ được sống gần nhau chưa đầy một tháng trời. Do đó không thể tránh khỏi sự nhầm lẫn, mong anh thông cảm cho. Vừa lúc đó người nhà anh Vân cho xe ra đón, anh Vân bảo với chị Thâu: Chuyện thì còn nhiều lắm, tôi về nhà dăm hôm rồi sẽ về thăm chị và cháu, chị cho tôi biết địa chỉ? Tôi ở xã Vũ Lạc huyện Vũ Thư tỉnh Thái Bình. Anh Vân đi rồi chỉ còn lại tôi và mẹ con chị Thâu. Sáng mai tôi ra bến xe Kim Mã mua vé đi Sơn Tây là quê hương của tôi. Trước khi chia tay tôi, chị Thâu bảo: Anh đã nghe rõ câu chuyện của tôi – anh Vân và anh Mai Tiến Thụ, tuy anh Vân còn giấu tôi, nhưng trong linh cảm tôi đã thấy có chuyện dữ. Anh cũng là một người lính, mong anh nhận giúp tôi bó hoa này. Và tôi cũng không tiện từ chối những dòng nước mắt của một người vợ liệt sĩ. Ba ngày hôm sau, anh Vân về Thái Bình thăm mẹ con chị Thâu, chị Thâu giờ nghỉ hưu tại quê để chăm sóc cha mẹ và nuôi con ăn học. Đất nước thống nhất, chị hy vọng anh sẽ trở về nhưng hôm nay chỉ có một người bạn chí thân của anh về thăm chị, anh Vân nhớ lại: Hồi ở Mộc Châu, trời rét như cắt ruột, mỏ mù ở hang Trùng phun khói ra dày đặc, hai người đứng cách nhau vài mét cũng không rõ mặt nhau, ấy vậy mà cứ bắt đầu từ 5 giờ 30 phút sáng, trưởng ban tác chiến Trung đoàn Mai Tiến Thụ đã nổi còi dọc doanh trại để đôn đốc bộ đội dậy tập thể dục, hay khi đánh Hứa Mường và Mường Hàm ra bên nước bạn Lào, Trung đoàn ĐKZ, chúng tôi cùng với C10 do anh Thụ chỉ huy, chúng tôi phòng ngự trên một quả đôi, bất thần vào lúc 1 giờ sáng có một con gấu rơi vào một chiến hào, quân ta tưởng địch nổ súng, con gấu bỏ mạng, ngay từ tờ mờ sáng đã thấy anh Thụ xách một bi đông rượu pha với mật gấu, anh chạy khắp các chiến hào, anh bắt anh em chúng tôi ai cũng phải uống một phần hai nắp bi đông, anh bảo: Uống đi, uống để lấy sức cho ngày mai còn đánh sang Hồng Lộn – Xiêng Khoảng!... Còn một kỷ niệm cũng thật khó quên, đó là: Anh chị mới quen nhau khoảng 3-4 ngày thế là đã dẫn nhau về nhà làm đám cưới, khi hết phép về đơn vị tập trumg, chúng tôi ở trong doanh trại, bang ngày anh chỉ huy đơn vị luyện tập, tối về anh chị sống hạnh phúc trong chiếc lán nhỏ còn thơm mùi cỏ tươi và ở đây anh chị đã để lại bé Thư bây giờ! Ngồi nói chuyện với mẹ con chị Thâu, anh Vân không muốn báo đến chị cái tin dữ này, song anh Vân đã thấy được bản lĩnh của người công nhân thời chiến, chị Thâu tất cũng hiểu rõ cái quy luật nghiệt ngã về sự hy sinh trong chiến tranh, anh Vân nghĩ: Trước sau rồi mẹ con chị cũng rõ anh Thụ hy sinh, anh thoáng nhìn vẻ mặt chị Thâu, anh thấy rõ những nét buồn và những nếp nhăn trên khuôn mặt chị. Tuy chị không khóc thành tiếng nhưng trong khóe mắt của chị, có chỗ đã đọng thành giọt. Anh Vân bắt đầu kể: Chiến dịch Đắc Tô I mở đầu cho chiến dịch mùa khô 1967 ở Tây Nguyên. Lúc đó, Mỹ đã trực tiếp đổ quân vào miền Nam. Mục tiêu của bộ đội ta là phải tiêu diệt được từ một đến hai tiểu đoàn lính Mỹ để khẳng định: Chúng ta có đủ khả năng đánh thắng giặc Mỹ, chiến dịch được thực hiện bằng chiến thuật “Chốt kết hợp với đánh vận động” đây là chiến thuật độc đáo, táo bạo của trung đoàn 174 do Trung đoàn trưởng Đàm Văn Ngụy đề xuất. Vào 10 giờ sáng ngày 12 tháng 11 năm 1976 anh Thụ được cấp trên giao chỉ huy C11, chặn đánh địch từ điểm cao 845 mò sang bao vây đồi Yên Ngựa. Anh Thụ đã thực hiện một trận đánh ngoài công sự, quân ta và quân địch tận dụng từng gốc cây là chướng ngại vật để quần nhau, quân ta thì nhỏ con lại thành thạo kỹ thuật lăn lê, bò toài nên thắng lợi, quân địch bỏ chạy, anh Thụ cho bộ đội ta truy kích đến sát điểm cao 845 thì máy bay địch đến bỏ bom trùm lên cả đội hình quân ta và quân địch, anh Thụ đã hy sinh anh dũng…! Chúng tôi đã thay quần áo cho anh, vuốt mắt và nắn chân tay cho anh, đơn vị đã tổ chức lễ truy điệu và phát động học tập cách đánh dũng cảm và táo bạo của anh! Chị Thâu ạ, là đồng đội, đồng chí của anh, chúng tôi sẽ trở lại chiến trường xưa để mang hài cốt của anh về cho chị và cháu. Để thực hiện nguyện vọng này anh Vân đã dành dụm số tiền trợ cấp thương tật của anh và anh đã ba lần khoác ba lô vào chiến trường Tây Nguyên, anh đã tìm được mộ của 30 đồng chí, trong đó có tiểu đoàn trưởng – Trưởng ban tác chiến Mai Tiến Thụ.
|
Tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử
Bùi Văn Kể Nguyên chiến sỹ E6, F5 Sau khi ký Hiệp định Paris năm 1973 so sánh lực lượng giữa ta và địch đang ở thế cài răng lược. Về phía ta, chủ trương của Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa Miền Nam Việt Nam là hòa hợp dân tộc một chủ trương được cho là rất phù hợp với mọi nhà, mọi người. Nguyễn Văn Thiệu – Tổng thống Việt Nam cộng hòa hô hào không hòa hợp dân tộc mà chủ trương mở chiến dịch “tràn ngập lãnh thổ” càn quét hòng xóa đi thế da báo. Hồi ấy đại bộ phận Sư đoàn 5 nằm ở Cai Lậy, Cái Bè (Tiền Giang ngày nay). Địch lấn chiếm đây thì ta đánh ngoài ra còn kết hợp với bộ đội địa phương và dân quân du kích bao vây, cô lập các tua, đồn bốt tiền tiêu. Vùng giải phóng không những được giữ vững mà còn mở rộng. Cuối năm 1973, cả đội hình sư đoàn được lệnh rút về hậu cứ ở Tây Ninh củng cố và chỉnh quân chỉnh cán. Lúc này ta có rất nhiều thuận lợi về địa bàn hoạt động, tinh binh, tinh cán. Đầu tháng 3 năm 1974, cả sư đoàn được lệnh hành quân xuống vùng Đức Huệ, Long Khốt (Long An). Qua mấy trận chiến ác liệt, Trung đoàn 1 bao vây chi khu Tuyên Nhơn, Trung đoàn 174 tấn công Long Khốt, Trung đoàn 6 tấn công giải phóng Trà Cao. Đầu tháng 4 năm 1975, Trung đoàn 6 được lệnh cấp trên chuẩn bị đánh Gò Măng Đa tiền đồn của chi khu Mộc Hóa. Bỗng dưng cấp trên tạm dừng trận đánh, Trung đoàn 6 quay trở lại, hành quân chọc thẳng xuống chi khu Thủ Thừa. Hai trung đoàn của Sư đoàn 5 là Trung đoàn 174 và trung đoàn 1 đánh thẳng xuống chi khu Tuyên Nhơn, bao vây thị xã Tân An, kết hợp với Sư đoàn 8 quân khu 9 chốt chặn ngã ba Trung Lương không cho địch từ Mỹ Tho, Cần Thơ về Sài Gòn chi viện. Đội hình Trung đoàn 6 hành quân vượt qua bao kênh rạch, sình lầy hai ngày, hai đêm đã tiếp cận gần chi khu Thủ Thừa tới kênh Bà Miều. Lúc này một số tháp canh tiền tiêu của địch phát hiện, chúng gọi pháo binh bắn dữ dội vào đội hình ta, tuy nhiên do biết lợi dụng địa hình địa vật và chuẩn bị công sự sẵn sàng chiến đấu kịp thời nên đơn vị không có thương vong gì. Trời cũng vừa lúc tang tảng sáng, một bộ phận đi đầu của đại đội 6 đã vào sát chợ chi khu. Loạt đạn AK đầu đã diệt tốp lính tuần tra. Thế là chiến sự xảy ra khu vực giữa chợ và chi khu. Tuy nhiên địch có ưu thế về phòng thủ vững chắc lại được hỏa lực chi viện tối đa của không quân và pháo binh, các chiến sĩ ta chiến đấu rất dũng cảm song vì lực lượng quá mỏng, lực lượng chi viện chưa tới kịp. Địch điên cuồng bao vây, cả đội hình đại đội 6 bị xé lẻ, đánh từng căn nhà. Qua hai ngày đêm chiến đấu, mười chiến sĩ ta hy sinh. Hôm đó là 20 tháng 4 năm 1975 chúng tôi được tin: Bộ chính trị quyết định mở chiến dịch Hồ Chí Minh để giành toàn thắng, ở mặt trận chúng tôi gồm tây và Tây Nam Sài Gòn cấp trên gọi là quân đoàn 232. Cùng ngày, nghe tin địch chiếm ở Xuân Lộc, Long Khánh đông Sài Gòn. Về phía Bắc, ta tấn công vào đại bản doanh sư đoàn 5 Ngụy ở Lai Khê, Bến Cát. Về phía Tây Bắc Sài Gòn Sư đoàn 316 chốt chặn quốc lộ 13 và tấn công vào chỉ huy sở sư đoàn 25 bộ binh Ngụy ở Đồng Dù, Củ Chi. Ở mặt trận chúng tôi, địch điều sư đoàn 22 ở miền Trung về. Trung đoàn 6, anh Tám Luông là Trung đoàn trưởng và anh Ba Đằng là chính ủy, được lệnh cấp trên để một bộ phận cầm chân địch ở chi khu còn đại bộ phận bọc qua cắt quốc lộ 4 đoạn từ Bến Lức đi Tân An, chặn đứng sư đoàn 22 Ngụy. Qua các đợt tấn công mãnh liệt của ta về cơ bản đã chặt đứt các sư đoàn mạnh nhất của quân Ngụy Sài Gòn như Sư đoàn 18, Sư đoàn 25, và sư đoàn 5. Tuy nhiên ta tổn thất không phải là nhỏ, cấp trên cho dừng lại để bổ sung quân số, vũ khí và lương thực chuẩn bị cho một trận quyết chiến cuối cùng. Trong lúc này, Ngụy quyền Sài Gòn hô hào thành lập cái gọi là “Chính phủ liên hợp”, Pháp đứng ra làm trung gian, một số đài phương Tây đưa tin là hơn một trăm hai mươi ngàn quân Cộng sản dừng lại xung quanh Sài Gòn để chờ một tân chính phủ liên hợp. Ngày 26 tháng 4 năm 1975, Nguyễn Văn Thiệu – Tổng thống Ngụy Sài Gòn sau khi lên truyền hình và đài phát thanh trách móc Mỹ bỏ rơi đã xa chạy cao bay. Ngày 27 tháng 4 năm 1975 anh Tám Luông và anh Ba Đằng đi sát với các tiểu đoàn, giữ vững thế bao vây và cắt quốc lộ 4. Buổi tối, chúng tôi nằm ở vườn chuối tây Thủ Thừa, vừa canh gác, vừa giữ một lượng lớn tù binh địch. Đêm chiến trận gọi là ngủ, nào có yên, rải lá chuối bên miệng hố cá nhân, pháo binh ta, pháo binh địch đan chéo ngược chiều nhau xoẹt qua đầu, những quả đạn A12, H12, ĐKB của ta từ đầm lầy vút lên với tiếng rú ghê rợn nhằm vào căn cứ hải quân Bến Lức, chi khu Tân An, súng vẫn nổ dữ dội suốt ngày 28 tháng 4. Tảng sáng ngày 29 tháng 4, chúng tôi vẫn “ăn” một đợt pháo của địch, anh em nhảy xuống hầm sát đìa ngâm mình dưới nước, ban đêm vẫn nghe tiếng pháo tầm xa 130mm của ta pháo kích sân bay và các căn cứ của địch, cùng ngày nghe tin không quân ta ném bom sân bay Tân Sơn Nhất. Tuy nhiên chúng tôi vẫn theo dõi sát thông tin bên chiếc đài bán dẫn, một người bạn đồng hành không thể thiếu, đài địch vẫn tuyên truyền chiến thắng này nọ vẫn bám lấy luận điệu thỏa hiệp và nói hơi khiêm tốn gọi là phía bên kia chiến tuyến để hòng vớt lại hơi thở thoi thóp. Sáng 30 tháng 4 năm 1975, tiếng súng vẫn còn nổ khắp nơi. Mùa khô miền Nam vẫn cái nắng chói chang, trời trong xanh, phóng tầm nhìn đến tận chân trời. Chúng tôi mỗi người một nắm cơm ăn với lạc rang muối gọi là bom bi. Tuy tay chân lấm mà ăn vẫn ngon. Đúng 11 giờ 30 phút Dương Văn Minh, tổng thống Ngụy tuyên bố đầu hàng không điều kiện, tất cả anh em chúng tôi nhảy lên ôm chầm lấy nhau, mừng ra nước mắt. Hòa bình rồi! Độc lập rồi. Lúc này tiếng súng im bặt, chỉ riêng H12 của ta vẫn rú qua đầu chúng tôi, nhằm vào đám tàn quân bỏ chạy, 14 giờ cùng ngày, các chị, các cháu chống xuồng đón chúng tôi vào ấp, tất cả đều ở nhà cơ sở cách mạng, buổi chiều sau bữa cơm đạm bạc, các ông già xách đèn măng sông mang rượu màu đi tìm chúng tôi. Các chị các mẹ liệt sĩ đăm chiêu trìu mến vui buồn lẫn lộn. Sáng hôm sau, ngày 1 tháng 5 chính quyền lâm thời hình thành, các loa truyền tin kêu gọi Ngụy quân, nhân viên Ngụy quyền ra trình diện. Lúc này việc xây dựng chính quyền cơ sở được đặt ra, một số anh em được cử xuống làm cố vấn giúp đỡ mạng lưới chính trị non trẻ này. Chiến thắng này làm tô thắm ngọn cờ cách mạng với sự lãnh đạo tài tình của Đảng, Bác Hồ, công lao này là xương máu của bao chiến sĩ đồng bào cả nước, tiến tới xây dựng và bảo vệ đất nước Việt Nam mãi trường tồn. |